Đông Sơn - từ địa danh thôn làng, địa danh cấp huyện tới tên một nền văn hóa
Danh xưng Thanh Hóa đã được xác định là xuất hiện từ năm Thiên Thành thứ 2, đời vua Lý Thái Tông (năm 1029). Đến năm 2024 là kỷ niệm 995 năm danh xưng Thanh Hóa. Năm 2024 cũng là kỷ niệm 100 năm phát hiện trống đồng, di vật của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ.
Địa danh Đông Sơn và địa giới huyện Đông Sơn
Theo “Đại Nam nhất thống chí”, vào năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ, trong đó có phủ lộ Thanh Hóa. Phủ lộ Thanh Hóa gồm 7 huyện và 3 châu, trong đó có huyện Đông Sơn. Đây là năm đầu tiên ghi nhận sự xuất hiện của địa danh “huyện Đông Sơn”, tính đến nay là 782 năm.
Đến năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đời vua Lê Thánh Tông, huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Thiên của thừa tuyên Thanh Hóa. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đổi làm thừa tuyên Thanh Hoa.
Năm Gia Long thứ 14 (1815), huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hoa. Lúc này, huyện Đông Sơn gồm có 6 tổng là Thọ Hạc, Quang Chiếu, Lê Nguyễn, Thạch Khê, Đại Bối, Vận Quy. Từ năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), trấn Thanh Hoa đổi thành tỉnh Thanh Hoa. Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), tách một phần tổng Thọ Hạc để lập tổng Bố Đức, tách một phần tổng Quang Chiếu để lập tổng Quảng Chiếu. Huyện Đông Sơn lúc này gồm có 8 tổng, tương ứng với địa giới hiện nay bao gồm huyện Đông Sơn và phần lớn thành phố Thanh Hóa (20 trong tổng số 30 phường và 2 trong tổng số 4 xã của thành phố), một phần huyện Thiệu Hóa (6 trong tổng số 22 xã cùng với phần nam sông Chu thuộc thị trấn Thiệu Hóa) và một phần nhỏ huyện Triệu Sơn (thôn Phúc Ấm, xã Đồng Tiến).
Năm Thiệu Trị thứ 1 (năm 1841), đổi tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hóa, duy trì đến ngày nay.
Năm 1889, theo đạo dụ của vua Thành Thái, 7 thôn thuộc tổng Bố Đức và 3 thôn thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn được tách ra để thành lập thị xã Thanh Hóa. Năm 1900, tách 2 tổng Vận Quy và Đại Bối của huyện Đông Sơn để nhập vào huyện Thụy Nguyên (sau là huyện Thiệu Hóa). Năm 1928, huyện Đông Sơn trực thuộc phủ Thiệu Hóa được đổi thành phủ Đông Sơn trực thuộc tỉnh Thanh Hóa. Huyện Đông Sơn lúc này bao gồm 7 tổng là Thạch Khê, Kim Khê, Tuyên Hóa, Quảng Chiếu, Viễn Chiếu, Thọ Hạc và Bố Đức.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), 7 tổng của huyện Đông Sơn được chia thành 22 xã. Năm 1948, sáp nhập thành 13 xã và đến năm 1954 tổ chức lại 24 xã.
Trong 50 năm từ 1963 đến 2012, lần lượt một số xã của huyện Đông Sơn được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa: xã Đông Giang (nay là các phường Hàm Rồng, Nam Ngạn và Trường Thi), Đông Vệ, Đông Hương, Đông Hải, Đông Cương, Đông Lĩnh, Đông Tân, Đông Vinh, Đông Hưng, thị trấn Nhồi (năm 2012 Nhồi đổi thành An Hoạch và năm 2019 sáp nhập với Đông Hưng thành phường An Hưng).
Như vậy, có thể thấy lịch sử ra đời của thị xã Thanh Hóa (năm 1889) đến nay là 135 năm cũng như quá trình phát triển, mở rộng thành phố đều gắn liền với huyện Đông Sơn. Không những vậy, trong lòng thành phố Thanh Hóa hiện nay còn có một địa danh nổi tiếng mang tên Đông Sơn: Làng cổ Đông Sơn.
Làng cổ Đông Sơn và nền văn hóa Đông Sơn
Trong khi địa danh “phường Đông Sơn” với ý nghĩa là “phường nằm phía đông của phường Lam Sơn” hình thành năm 1981 trên cơ sở phần đất các làng Lai Thành và Hương Bào Ngoại (tổng Bố Đức xưa) thì làng cổ Đông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng) lại có lịch sử hình thành xa xưa hơn nhiều.
Năm 1924, từ phát hiện tình cờ của một cư dân làng Đông Sơn, tên thôn/làng Đông Sơn đã trở thành tên gọi cho một nền văn hoá khảo cổ học nổi tiếng thế giới: Văn hoá Đông Sơn. Từ lòng đất làng Đông Sơn, đã phát hiện những bộ nông cụ đa dạng, các loại vũ khí, các loại đồ gốm, đồ trang sức đặc sắc cho đến những chiếc trống đồng hoa văn tinh xảo... Điều đó cho thấy từ thời kỳ dựng nước Văn Lang, Đông Sơn đã là một làng nông nghiệp hình thành và phát triển lâu dài, có vị thế trong khu vực. Phát hiện về di tích làng cổ Đông Sơn với niên đại hơn 2.500 năm đã mở ra chương mới cho việc nghiên cứu văn minh Việt cổ thời dựng nước đầu tiên. Sau đó, suốt ngàn năm Bắc thuộc, làng Đông Sơn vẫn nằm trong địa bàn quan trọng của vùng đất Cửu Chân mà lỵ sở là thành Tư Phố, nay thuộc phường Thiệu Dương, cách làng Đông Sơn chỉ vài kilômet. Dấu vết khu cư trú, khu mộ táng của các thời kỳ Hán, Đường, Lục Triều được phát hiện ở làng Đông Sơn đã cho thấy sự phát triển liên tục của vùng đất này trong thời kỳ giao thoa văn hoá Việt - Hán và các giai đoạn phát triển kế tiếp. Làng Đông Sơn cũng là địa bàn quan trọng với nhiều chứng tích trong các triều đại phong kiến Việt Nam: Lý - Trần - Hậu Lê - Tây Sơn và Nguyễn. Vào thời Trần, tên thôn/làng Đông Sơn được lấy để đặt cho huyện Đông Sơn, điều này khẳng định vị thế quan trọng của làng Đông Sơn.
Theo địa bạ đời vua Minh Mệnh triều Nguyễn (khoảng 1832-1837), làng Đông Sơn, còn gọi là thôn Đông Sơn, thuộc xã Đông Sơn, tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Xã Đông Sơn lúc này có 4 thôn gồm các thôn Đông Sơn, Đông Cầu, Phúc Sơn, nay thuộc phường Hàm Rồng và thôn Thổ Sơn, sau đổi thành Hạc Oa, nay thuộc phường Đông Cương. Vào năm 1242, vua Trần Thái Tông cho lập phủ lộ Thanh Hóa trong đó có huyện Đông Sơn, do đó tên thôn/làng Đông Sơn còn xuất hiện từ trước đó. Đơn vị hành chính “tổng” xuất hiện chính thức vào thời Nguyễn, như vậy trong suốt thời Trần cho đến Hậu Lê và Tây Sơn, chúng ta có sự liền mạch, nhất quán về địa danh: thôn Đông Sơn thuộc xã Đông Sơn, huyện Đông Sơn.
Hình: Bản đồ làng Đông Sơn trong tương quan với núi Đọ và các lỵ sở của tỉnh Thanh Hóa trong lịch sử: thành Đông Phố, thành Tư Phố và Hạc Thành, các địa điểm này đều thuộc huyện Đông Sơn trong lịch sử.