• Lưu ý đọc kỹ nội quy trước khi đăng bài để tránh bị bannick, xóa bài. Xem hướng dẫn đăng bài và tính năng UP tin miễn phí
  • Thông báo về việc đăng bài & đăng ký thành viên áp dụng tại thread Hot news, Projects & Developments
    - Phải đăng ký thành viên mới có thể đăng bài tại thread này.
    - Nếu gặp khó khăn khi đăng ký, vui lòng liên hệ qua email : thanhhoaonline.net@gmail.com để được hỗ trợ đăng ký và kích hoạt tài khoản.

yeah_haha

Người nổi tiếng
Tại Hội nghị Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh ngày 02/8/2022, sau khi nghe Sở Xây dựng và đơn vị tư vấn báo cáo nội dung đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2045, ý kiến của các đại biểu tham dự hội nghị, Bí thư Ban cán sự Đảng - Chủ tịch UBND tỉnh kết luận như sau: 1. Cơ bản thống nhất nội dung đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2045. Tuy nhiên, cần nghiên cứu kỹ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để xác định mục tiêu, định hướng phát triển thị xã cho phù hợp. Các nội dung điều chỉnh phải báo cáo rõ phạm vi, mức độ, nội dung điều chỉnh; nguyên nhân, lý do dẫn đến việc điều chỉnh; đánh giá các tác động của việc điều chỉnh; đồng thời, việc nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch phải gắn với dự kiến sáp nhập thị xã Bỉm Sơn và huyện Hà Trung để thành lập thị xã mới trong tương lai.
PS: Bỉm Sơn và Hà Trung nhập lại mà chỉ dám làm thị xã thì tạm thời chưa nên nhập. Cần nghĩ lớn, làm lớn hơn.
Xác nhập rồi thành lập thị xã mới là chuẩn rồi, mở rộng thêm gần 250km vuông thì tiêu chí đô thị giảm mạnh là đúng rồi. TX BS diện tích có 67Km vuông. Mong rằng sớm xác nhập trước 2025 thì càng tốt. Sau khi xác nhập thì kiểu gì cũng phải làm trung tâm hành chính mới và thúc đẩy xây dựng nhiều khu đô thị mới để kết nối 2 vùng. Bỉm Sơn sẽ không bị kìm chân vì diện tích phát triển quá bé nữa. Hiện diện tích bé thứ 2 của tỉnh mà lại có 70% là đồi núi, tính ra đất phát triển đô thị có đc bao nhiêu đâu, thêm Hà Trung vào thì ngon rồi, đất bao la rộng lớn tha hồ mà vẽ.
 

Hungda

Người nổi tiếng
  1. Thời điểm bây giờ là thời điểm nhạy cảm, hàng loạt cán bộ bị kỷ luật. Không ai muốn mình trở thành đối tượng bị phản hồi, bị để ý.
  2. Nếu việc này diễn ra ở khóa trước thì đúng như lời hứa với cụ P.
  3. Trái ý cụ P, nói chung là cũng ngại đó, nếu ai theo vấn đề tâm linh. Cụ P trăn trở với quê hương lắm.
Cho dù đem ý chí LĐ để lái theo hướng nào đó thì LĐ cũng phải nắm rõ bản chất vấn đề thì mới quyết theo hướng tích cực được. Nếu không thì sẽ hoặc là rỗng tuếch (như tr/h bí thư huyện Từ Liêm trc đây khi chuẩn bị tách 2 quận Bắc Tự Liếm-Nam Tự Liếm là "Từ Liêm" là nhân từ, liêm khiết) hoặc là dân túy. Mà dân túy thì cuối cùng cũng chẳng đến đâu.
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Cho dù đem ý chí LĐ để lái theo hướng nào đó thì LĐ cũng phải nắm rõ bản chất vấn đề thì mới quyết theo hướng tích cực được. Nếu không thì sẽ hoặc là rỗng tuếch (như tr/h bí thư huyện Từ Liêm trc đây khi chuẩn bị tách 2 quận Bắc Tự Liếm-Nam Tự Liếm là "Từ Liêm" là nhân từ, liêm khiết) hoặc là dân túy. Mà dân túy thì cuối cùng cũng chẳng đến đâu.
Tiếc tên TP Đông Sơn quá
 
T

Tancucai

Khách vãng lai
Thống kê 3 năm gần nhất còn gì? nếu bạn có thể thì thống kê từ 2010 trở đi
Tính số lượng chưa bao giờ là lợi thế của BN so với TH, 1 tỉnh gần 1,5 triệu dân đi so số lượng với tỉnh hơn 3,7 triệu dân thật nực cười, vậy nên chỉ nên tính bình quân để thấy mặt bằng chung
Về hạ tầng giáo dục á, cần gì phải liệt kê cụ thế khi đã có số liệu thống kê?
Phổ cập giáo dục các cấp học (đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi và chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học, THCS mức độ 3, xoá mù chữ mức độ 2 thời điểm tháng 12-2016 (hiện toàn quốc mới có 18/63 tỉnh hoàn thành); tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn theo Luật Giáo dục 2019 là 94,3% (toàn quốc 79,2%); tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100% (toàn quốc 71%); tỷ lệ trường công lập đạt chuẩn Quốc gia 100% (toàn quốc 56,9%)…
Nói về cơ sở vật chất các trường trọng điểm, cơ sở vật chất Chuyên Lam Sơn ăn được Chuyên Bắc Ninh không? hiện tại Chuyên Bắc Ninh về cơ sở vật chất vẫn dẫn đầu cả nước các trường công lập, kể cả thêm Vinschool cũng chưa chắc ăn được mà đòi bỏ luôn
Trường Quốc tế có Himlam (trường nằm trong hệ thống các trường IB toàn cầu được công nhận), FPT School, Quốc tế Kinh Bắc, Winston, Oriole International School, Pathway Tuệ Đức
Canada Maple Bear ibsb,..
Trường liên cấp có Lý Công Uẩn, Đào Duy Từ, Lương Thế Vinh, Chu Văn An, Eduwin School, Hoàng Hoa Thám,...
Sơ sơ ảnh vài trường





Đây chỉ là một số trường thôi nhé, TP còn rất nhiều trường đẹp :) huyện cũng vậy
Ko cần phải phân tích nhiều đâu thanh niên oi, chỉ cần lấy grdp bình quân đầu người của BN và TH so sánh đủ biết năng suất LĐ , mức sống , của người dan 2 địa phuong thế nào ( BN cao hơn 2 lần TH )
 

Hungda

Người nổi tiếng
VĂN HÓA THĂNG LONG VỚI SỰ ĐÓNG GÓP CỦA THANH HÓA

Xin đăng lại bài viết của Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ, Tham luận Hội thảo “Thanh - Nghệ với 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, được con trai ông đăng tải hôm nay trên trang cá nhân. Cụ Hoàng Tuấn Phổ quê Quảng Xương, nhưng gốc gác nhiều đời trước ở Hưng Yên.
Việc đăng bài này là để ôn cố tri tân, không nhằm khoe khoang hay kể công với ai cả.
---
Lý Thái tổ trước khi ban chiếu dời đô, nói với quần thần: “Trẫm nay mở xem địa đồ, Đại La thành, kinh đô cũ của Cao Biền, ở trung tâm đất nước, có hình thế hiểm yếu như rồng bò hổ phục, bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều, thực là chỗ kinh đô quý nhất của đế vương”. Nhà vua nói “Kinh đô cũ của Cao Biền” là cách nói cho dễ hiểu. Sự thật lịch sử, thành Đại La xưa đã qua nhiều đời xây đắp, sửa sang, năm 836, Cao Biền tu bổ thêm, đặt là Đại La thành.
Cao Biền chỉ ở Việt Nam 9 năm, và chính Cao Biền đã vô cùng kinh hãi mà than rằng: “Thần linh xứ này rất thiêng, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ !”. Chẳng riêng Cao Biền, các viên tướng xâm lược khác sang thay: Cao Tầm, Tăng Cổn, Chu Toàn Dục…,cũng đều không thể yên vị lâu dài. Thành Đại La thời ấy xây dựng nhằm mục đích quân sự, chủ yếu để bảo vệ chính quyền cai trị và đội quân xâm lược. Năm 906, nhân tình hình Trung Quốc loạn lạc, Giao Châu biến động, họ Khúc, một hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương) mới chiếm lấy Đại La, tự xưng Tiết độ sứ, gây nền tự trị. Được 1 năm, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay. Năm 917, Khúc Hạo qua đời, chính quyền trao lại cho con trai Khúc Thừa Mỹ. Chúa Nam Hán sai tướng Lý Khắc Chính xâm lược. Thừa Mỹ chống cự không nổi bị bắt đem về Trung Quốc. Nhà Nam Hán sai Lý Tiến làm thứ sử cùng Lý Khắc Chính đóng giữ thành Đại La.
Nhưng họ Khúc mất, còn họ Dương, một tướng cũ của Khúc Hạo. Ông Dương Đình Nghệ người Thanh Hoá, cánh tay phải của Khúc Hạo trải mười năm giúp sức Khúc Hạo kiến thiết đất nước, bảo vệ chính quyền tự trị non trẻ. Thành Đại La rơi vào tay quân xâm lược, Dương Đình Nghệ tạm lui về quê nhà, cởi nhung phục, khoác áo nông phu, chuẩn bị lực lượng, tích chứa lương thảo, để năm 931 đem 3.000 con nuôi là 3.000 tráng sĩ dũng mãnh của Thanh Hoá, từ Thanh Hoá tiến đánh Lý Khắc Chính, giết Trần Bảo, giải phóng thành Đại La. Dương Đình Nghệ mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước. Sau Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, chàng con rể trí dũng hơn người, lại đem quân từ Thanh Hoá giữ vững thành Đại La và làm nên chiến công Bạch Đằng sấm sét. Rồi Lê Hoàn tòng quân tuổi 16, ra đi từ làng quê Thanh Hoá, 50 năm chinh chiến và làm vua, bởi tình hình đất nước còn lắm nỗi lo toan, tuy đóng đô ở Hoa Lư, vẫn đặt Đại La dưới tầm kiểm soát.
Xây dựng thêm một Đại La thành “bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều” không phải những tên tướng xâm lược phương Bắc mà chính là họ Khúc, họ Ngô, họ Đinh, họ Lê, in khá sâu đậm dấu ấn Ái Châu-Thanh Hoá. Đó là thời kỳ văn hoá Đại La hay “Tiền Thăng Long”, nếu thiếu nền tảng ấy, nhà Lý không có cơ sở để dời đô.
Dời đô đến Thăng Long, Lý Thái tổ quan tâm văn hoá tinh thần, văn hoá tâm linh trước hết. Bắt đầu hình ảnh rồng vàng hiện lên để Đại La không còn là Đại La, mà hoá thành Thăng Long, kinh đô của Rồng Thiêng, của con cháu Lạc Long Quân – vua Rồng xứ Lạc. Tiếp theo, Lý Thái tổ suy tôn một vị thần rồng – thần Long Đỗ làm Quốc đô thành hoàng chủ kinh đô, đứng đầu các thần linh trong cả nước. Thần thiêng Thăng Long ngoài Long Đỗ còn có thánh Chèm, tức Lý Ông Trọng uy danh chấn động cả nước Trung Hoa, Cao Biền rất kinh sợ phải lập đàn thờ cúng…Nhưng văn hoá tinh thần, văn hoá tâm linh đối với nhà Lý buổi đầu dựng đô hẳn là vẫn chưa đủ để làm chỗ dựa cho tinh thần dân tộc, tạo nên sức mạnh đoạn kết dân tộc, đấu tranh, chiến thắng mọi kẻ thù địch. Năm 1020 (mười năm sau dời đô), Thái tổ nghe theo lời tâu của Thái tử Phật Mã rước thần núi Đồng Cổ ở Đan Nê, Yên Định, Thanh Hoá về thờ phụng trong thành Thăng Long. Năm 1028, Thái tổ mất, ba vương tử nổi loạn, Phật Mã phải nhờ thần núi Đồng Cổ và tướng quân Lê Phụng Hiểu lực sĩ xứ Thanh cứu giúp mới giữ yên được ngôi vị, bảo toàn xã tắc.
Từ đó, hàng năm nhà Lý mở Hội Thề tại đền Đồng Cổ. Thần được tôn là “Thiên hạ minh chủ”, bá quan văn võ triều đình đều phải đến tuyên thệ “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần linh tiêu diệt!”. Hội thề Đồng Cổ thành nét văn hoá mới đặc sắc của nhà nước Đại Việt duy trì từ Lý sang Trần, đến Lê suốt chiều dài lịch sử gần tám trăm năm! Thời Nguyễn, kinh đô chuyển về Thuận Hoá. Đồng Cổ sơn thần vẫn bất diệt với Thăng Long. Ý nghĩa giáo dục “con hiếu tôi trung” thấm sâu vào xã hội, góp phần hình thành một nét tính cách Thăng Long nghìn năm văn hiến.
Một trong những cảnh đẹp nhất Thăng Long là Tây Hồ, với “Bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái” với “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương…” Thời Lý, Hoa nương người Ái Châu (Thanh Hoá) kết duyên với Đoàn Thưởng, viên quan coi các nghề thủ công. Bà dạy dân ven hồ Dâm Đàm (hồ Tây) nghề dệt vải lụa. Bà mất, vua Lý truy phong là Thụ La công chúa, cho lập đền thờ ở ven hồ Dâm Đàm, dân địa phương tôn gọi là “Bà chúa dệt vải”. Vùng ven hồ Tây còn còn miếu thờ “Bà chúa nghề tằm” cũng người Thanh Hoá. Đời Lê Thánh tông, ông Trần Vĩ tuổi già nghỉ hưu, mở trường dạy học bên Hồ Tây. Trần Vĩ có cô con gái Quỳnh Hoa, gả cho chàng Liễu Nghị cùng quê làm tri phủ Hà Trung (Thanh Hoá). Sau khi Liễu Nghị mất, bà về nơi cha xưa mở trường dạy học, truyền nghề chăn tằm dệt lụa cho dân địa phương. Bà được tôn làm thần Thành hoàng làng và tên làng Nghi Tàm (kiểu mẫu nghề tằm tang) đặt ra từ đó.
Nếu Hoa nương Quỳnh Hoa đem tài hoa khéo léo “dệt” nên những bức tranh làng quê Yên Thái, Nghi Tàm, soi sáng “mặt gương Tây Hồ”, giữa “mịt mù khói toả ngàn sương”, thì những bàn tay thợ Thanh Hóa cũng góp phần tô điểm cho phố phường Thăng Long như Trọng Nghĩa, ông tổ nghề mộc, Nguyễn Kim, ông tổ nghề khảm trai…
Dệt nên huyền thoại Phủ Tây Hồ linh thiêng và thơ mộng cũng là một phụ nữ xứ Thanh: Liễu Hạnh công chúa! Bà vốn là tiên nữ trên trời thác sinh làm con gái ông Lê Công dòng dõi vua Lê Lợi, hương Lam Sơn. Bà lập đô ở Thanh Hóa, Phố Cát, nhưng tính thích ngao du sơn thuỷ, ưa dạo chơi danh lam thắng tích. Bà ra Thăng Long dựng lầu thơ bên bờ Hồ Tây, hút hồn bao danh sĩ Thăng Long, đem đến cho Thăng Long một thú vui chơi tao nhã.
Đóng góp lớn lao cho văn hoá văn nghệ Thăng Long đời Trần tiêu biểu là Lê Văn Hưu, Lê Bá Quát, Hồ Quý Ly…và một hiện tượng đặc biệt: Lê Thánh tông, ngôi sao sáng rực rỡ trên bầu trời văn chương Đại Việt.
Lê Văn Hưu, nhà sử học đâù tiên nước ta, người chép sử giỏi nhất một thời, cũng là thầy học của Thái sư Trần Quang Khải. Điều thú vị về bộ sử lớn Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Văn Hưu là người khởi thảo và Lê Hy-người hoàn chỉnh, cùng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thiệu Hoá-Đông Sơn bên bờ sông Mã.
Lê Bá Quát quê Phủ Lý cùng làng Lê Văn Hưu. Về chính trị, Lê Bá Quát làm tời chức Á tướng, được xem là bậc “hiền tài”, “cứng cỏi quả quyết”, về văn chương là cây bút “tài khí hùng hồn hơn người”.
Hồ Quý Ly đề cao chữ Nôm, làm sách Thi nghĩa bằng Quốc âm cho sư nữ dạy hậu phi và cung nhân học tập. Sách Minh đạo của ông, tuy vấn đề học thuật còn phải bàn chỗ này, chỗ kia, cũng là một bước đột phá quan trọng chống lối tư duy khuôn sáo “thuật nhi bất tác” của nhà Nho bảo thủ.
Lê Thánh tông, bậc minh quân, cháu nội Thái Tổ Cao hoàng đế Lê Lợi, 40 năm trị nước, đã đưa chế độ phong kiến Đại Việt phát triển đến cực thịnh, là tác gia lớn Việt Nam với kho tàng tác phẩm đồ sộ. Ông tổ chức Hội tao đàn đầu tiên của Thăng Long gồm 28 ngôi sao sáng thủ đô do Thiên Nam Động Chủ làm là Đô nguyên suý. Ở Lê Thánh tông, vị hoàng đế và nhà văn hoá là một “Trống dời canh còn đọc sách – Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”, “Lúc rảnh sau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, ta mắt xem rừng sách, lòng dạo vườn văn…”. Ông chế ra lễ nhạc, định ra pháp luật. Bộ luật Hồng Đức đến nay còn nhiều điểm giá trị. Ông tuyên bố trước quần thần: “Hình luật là hình luật của cả nước, ta và các ngươi đều cùng phải theo”. Khái niệm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bắt đầu từ ông, một hoàng đế phong kiến trung cổ.
Đời Hồng Đức, trên cở sở kinh tế phát triển, dân số tăng nhanh, làng xóm mở rộng. Làng nào cũng có đình để hội họp, miếu để thờ thần linh, lối hát Cửa Đình phát triển, đến đời Trung hưng trở nên phổ biến.
Hát Cửa Đình còn gọi là hát Ả Đào, Hát Nhà Trò, tên phổ biến hiện nay là Ca Trù. Thần tích “Tổ sư giáo phường Lỗ Khê” (Hà Nội) do Đông Các học sĩ Đào Cử soạn tháng Giêng năm Hồng Đức thứ 7 (1476), cho biết: “Đinh Lễ (quê Thọ Xuân) danh tướng Lam Sơn, vâng lệnh vua Lê Lợi đánh giặc Minh, dựng đồn trại ở Lỗ Khê, có con trai là Đinh Dự 12 tuổi thiên tư dĩnh ngộ, học vấn tinh thông, cầm kỳ thi hoạ, xướng ca đàn phách giỏi hơn người. Một hôm Đinh Dự chơi chùa Thiên Thai (Bắc Ninh) gặp người con gái tài sắc tên là Đường Hoa Tiên Hải từ động Nga Sơn, Thanh Hoá, ra truyền dạy ca hát ở các giáo phường. Hai người ý hợp tâm đầu, nguyện kết duyên cầm sắt rồi cùng về trang Lỗ Khê, Thăng Long mở giáo phường truyền nghề Hát Ả Đào. Sau khi Thái tổ lên ngôi, hai vợ chồng Đinh Dự đến đàn hát chúc mừng (Đinh Lễ là cha Đinh Dự, gọi Lê Lợi là cậu ruột hy sinh năm 1427). Vua Thái tổ ban yến tiệc xong, hai vợ chồng cùng hoá (mất). Xét vợ chồng Đinh Dự là bề tôi trung nghĩa, có công truyền bá nghề hát Ả Đào rất hay, Thái tổ triệu giáo phường các nơi lên kinh rước “Mỹ tự” (sắc phong) vua ban về lập đền thờ, và tứ cho các xã hàng năm tiết xuân thu mở hội kỳ phúc tổ chức để các giáo phường ca hát tế thần. Tới triều vua Hồng Đức (Lê Thánh tông), lại xét gia phong cho Đinh Dự là “Thanh Xà đại vương” và vợ là “Mãn Đường Hoa công chúa”…
Ngày nay, cạnh ngôi đình làng Lỗ Khê, còn đền thờ tổ sư giáo phường, quy mô nghi vệ đầy đủ. Thời Hậu Lê đến đời Nguyễn, giáo phường các nơi thuộc đồng bằng Bắc bộ: Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Hà Đông đều cử đại biểu về Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội) làm giỗ Tổ sư nghề hát của mình, vào ngày 13 tháng 11 âm lịch theo quy định trong Điển lễ thờ cúng từ đời Lê Thánh tông. Mới đây, tổ chức UNESCO công nhận “Ca trù Việt Nam là di sản văn hoá phi vật thể thế giới”, một trong những vinh quang của Văn hoá Thăng Long, cũng là vinh dự đóng góp của người Thanh Hoá.
Trong khoảng trên dưới 30 năm, nhà Hậu Lê đóng đô ở Thăng Long đã góp công sức lớn lao khó kể hết đối với Thăng Long và đất nước.
Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn vây chặt thành Đông Quan, theo lệnh Lê Lợi cố gắng bằng mọi cách để giải phóng Đông Quan, vẫn bảo toàn Thăng Long không bị quân Minh tàn phá. Điều không thể tránh khỏi, quân Minh rút về nước để lại hậu quả hết sức nặng nề: về kinh tế kiệt quệ, kho tàng rỗng không, nhà cửa hư hại…Lấp vào khoảng trống vô cùng to lớn ấy, Thanh Hoá đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Họ là vua chúa, quan chức, tướng lĩnh, quân lính, suốt 10 năm không tiếc máu xương, nay lại không quản công sức khôi phục kinh thành. Người Thanh Hoá, từ ông vua đến anh lính gia nhập Thăng Long với cả tài sản văn hoá tinh thần của quê hương mình, góp nên hương sắc Thăng Long nghìn năm văn vật, hình thành bản sắc Văn hoá Thăng Long, như những sợi chỉ hồng xuyên suốt nghìn năm lịch sử… Thời kỳ Văn hoá Thăng Long phồn thịnh nhất dưới triều Lê Thánh tông, riêng họ Nguyễn Gia Miêu, Hà Trung làm quan ở kinh đô đã tới hơn 200 người!
Cuối đời Lê sơ, kinh thành rối loạn, phe phái nổi lên xâu xé. Họ Nguyễn Gia Miêu dẫn đầu là Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim (con trai) tập hợp lính đánh dẹp bọn phản loạn. Hết lương về Thanh Hoá thu lương, hết quân về Thanh Hoá mộ quân. Các ông còn tổ chức khai hoang ngay tại quê nhà để có thóc gạo nuôi quân. Họ kiên quyết bảo vệ cơ đồ nhà Lê cũng là bảo vệ nhân dân Thăng Long với nền văn hoá lâu đời ấy.
Tiêu biểu cho giới nho sĩ Thanh Hoá thời Lê Trung hưng là Trạng nguyên Trịnh Huệ. Ông trải qua các chức vụ Đông các đại học sĩ, Thượng thư bộ lại, Thượng thư bộ hình, Tham tụng (tể tướng) phủ Chúa rồi suốt 25 năm làm Tế tửu Quốc Tử giám, trường đại học duy nhất Thăng Long – Việt Nam, trông coi việc đào tạo nhân tài cho cả nước. Một trong những học trò nổi tiếng của Trịnh Huệ là Nguyễn Hoàn quê Lan Khê, Nông Cống, đỗ hội nguyên tiến sĩ, làm quan đến Thượng thư bộ lại, Tham tụng (tể tướng) phủ Chúa, tước Hoàn quận công. Trịnh Huệ viết chuyên khảo bàn về “Tam giáo” rất được các nho sĩ tài danh Thăng Long Ngô Thì Sĩ, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn…tham gia hưởng ứng, gây không khí học thuật sôi nổi trong giới Nho học kinh kỳ nghìn xưa hiếm thấy.
Đóng góp xây dựng nền Văn hoá Thăng Long là trách nhiệm cũng là vinh quang của Thanh Hoá. Lịch sử không ngừng phát triển theo quy luật của nó: Tây Sơn, Nguyễn rồi 80 năm thực dân Pháp xâm lược, núi Nùng san phẳng, kinh thành đổi tên, nhưng Thăng Long vẫn là Thăng Long! Dấu tích Thanh Hoá vẫn còn đó với thắng cảnh Tây Hồ thơ mộng, phủ chúa Liễu linh thiêng, tượng Lê Thái tổ uy nghiêm, hồ Hoàn Kiếm huyền thoại, chùa Dục Khánh nơi ra đời Lê Thánh tông, đền Tổ sư Ca trù Đinh Dự…Nhưng đó chỉ là dấu ấn nổi, còn những sợi chỉ hoa gấm thì lặn chìm để góp dệt nên nền văn hoá Thăng Long mãi mãi tươi sáng, trường tồn cùng sông núi Việt Nam.
 

VPC-HC

Người nổi tiếng
Ko cần phải phân tích nhiều đâu thanh niên oi, chỉ cần lấy grdp bình quân đầu người của BN và TH so sánh đủ biết năng suất LĐ , mức sống , của người dan 2 địa phuong thế nào ( BN cao hơn 2 lần TH )
Đang bàn đến giáo dục khoa bảng mà bạn, phải nói để cho những người hạn hẹp, kiến thức chưa đầy đủ mà vội kết luận hiểu. Còn những cái như grdp bình quân, thu nhập bình quân thì không cần nói các bác TH ở đây cũng biết. Bắc Ninh là tỉnh đồng bằng, cân đối ngân sách từ 10 năm trước, hệ thống trường học có thể tự tin Bắc Ninh là tỉnh chăm đầu tư nâng cấp nhất vùng ĐBSH.
 

VPC-HC

Người nổi tiếng
TH hút CN có thể thua BN chứ QN thua sao được hồi hôm nói chuyện với mấy ông bên tỉnh, thì dự kiến QN hút ít nhất 1.5 tỷ USD FDI năm nay, mà cái hóa dầu QN nó là doanh nghiệp nội ko phải FDI mà đã khủng thế cơ mà
Bắc Ninh 7 tháng đã 1,68 tỷ USD FDI, Quảng Ninh mới khoảng 140 triệu.... Dự án 1,5 tỷ đô hoá dầu QN vừa rồi chủ cũng là đại gia Bắc Ninh
 

Harley Quinn

Người nổi tiếng
Đang bàn đến giáo dục khoa bảng mà bạn, phải nói để cho những người hạn hẹp, kiến thức chưa đầy đủ mà vội kết luận hiểu. Còn những cái như grdp bình quân, thu nhập bình quân thì không cần nói các bác TH ở đây cũng biết. Bắc Ninh là tỉnh đồng bằng, cân đối ngân sách từ 10 năm trước, hệ thống trường học có thể tự tin Bắc Ninh là tỉnh chăm đầu tư nâng cấp nhất vùng ĐBSH.
Bận mấy hôm nay mới vào, ôi bạn ơi, bạn xem mình nói gì nhỉ, bạn tự nhận quê hương khoa bảng hiển hách, rồi bảo Thanh Hóa mới chỉ nổi vài chục năm trở lại, mình cũng chưa nói BẮc Ninh không có truyền thống hay không mà nhấn mạnh theo quan điểm của mình " Truyền Thống chỉ được gọi khi có tính kế thừa bền bỉ qua ngàn năm mà không bị đứt gãy", mình cho bạn xem cái DS Thủ Khoa Nho Học Việt Nam khi chưa phân Trạng Nguyên, nếu bạn tự nhận kiến thức dồi dào thì tìm hiểu xem quê quán họ đến từ đâu xem thế nào nhé

Mình cần làm rõ cái khái niệm : " Truyền Thống Khoa Bảng " ở đây là gì, đừng đánh tráo sang khái niệm quê tôi nhiều Trạng Nguyên nhất thì mới được gọi là truyền thống bla bla =)))))))

Cái bảng DS Trạng Nguyên Wiki là cái bảng chẳng có kiểm chứng gì, mình xem nó từ khá lâu rồi không phải Thủ Khoa nào cũng liệt kê vào Danh Sách, cũng như không phải cứ danh xưng Trạng Nguyên thì mặc định chỉ họ mới là người đỗ cao nhất, như trường hợp của Lưu Diễm, Lương Đắc Bằng về thực tế họ chính là đồng Trạng Nguyên nhưng không hề liệt kê, theo mình tìm hiểu thì hình như Bắc Ninh không có Đình Nguyên nào thì phải

3465



Bảng Nhãn Việt Nam

 
Last edited:

Harley Quinn

Người nổi tiếng
VĂN HÓA THĂNG LONG VỚI SỰ ĐÓNG GÓP CỦA THANH HÓA

Xin đăng lại bài viết của Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ, Tham luận Hội thảo “Thanh - Nghệ với 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, được con trai ông đăng tải hôm nay trên trang cá nhân. Cụ Hoàng Tuấn Phổ quê Quảng Xương, nhưng gốc gác nhiều đời trước ở Hưng Yên.
Việc đăng bài này là để ôn cố tri tân, không nhằm khoe khoang hay kể công với ai cả.
---
Lý Thái tổ trước khi ban chiếu dời đô, nói với quần thần: “Trẫm nay mở xem địa đồ, Đại La thành, kinh đô cũ của Cao Biền, ở trung tâm đất nước, có hình thế hiểm yếu như rồng bò hổ phục, bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều, thực là chỗ kinh đô quý nhất của đế vương”. Nhà vua nói “Kinh đô cũ của Cao Biền” là cách nói cho dễ hiểu. Sự thật lịch sử, thành Đại La xưa đã qua nhiều đời xây đắp, sửa sang, năm 836, Cao Biền tu bổ thêm, đặt là Đại La thành.
Cao Biền chỉ ở Việt Nam 9 năm, và chính Cao Biền đã vô cùng kinh hãi mà than rằng: “Thần linh xứ này rất thiêng, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ !”. Chẳng riêng Cao Biền, các viên tướng xâm lược khác sang thay: Cao Tầm, Tăng Cổn, Chu Toàn Dục…,cũng đều không thể yên vị lâu dài. Thành Đại La thời ấy xây dựng nhằm mục đích quân sự, chủ yếu để bảo vệ chính quyền cai trị và đội quân xâm lược. Năm 906, nhân tình hình Trung Quốc loạn lạc, Giao Châu biến động, họ Khúc, một hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương) mới chiếm lấy Đại La, tự xưng Tiết độ sứ, gây nền tự trị. Được 1 năm, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay. Năm 917, Khúc Hạo qua đời, chính quyền trao lại cho con trai Khúc Thừa Mỹ. Chúa Nam Hán sai tướng Lý Khắc Chính xâm lược. Thừa Mỹ chống cự không nổi bị bắt đem về Trung Quốc. Nhà Nam Hán sai Lý Tiến làm thứ sử cùng Lý Khắc Chính đóng giữ thành Đại La.
Nhưng họ Khúc mất, còn họ Dương, một tướng cũ của Khúc Hạo. Ông Dương Đình Nghệ người Thanh Hoá, cánh tay phải của Khúc Hạo trải mười năm giúp sức Khúc Hạo kiến thiết đất nước, bảo vệ chính quyền tự trị non trẻ. Thành Đại La rơi vào tay quân xâm lược, Dương Đình Nghệ tạm lui về quê nhà, cởi nhung phục, khoác áo nông phu, chuẩn bị lực lượng, tích chứa lương thảo, để năm 931 đem 3.000 con nuôi là 3.000 tráng sĩ dũng mãnh của Thanh Hoá, từ Thanh Hoá tiến đánh Lý Khắc Chính, giết Trần Bảo, giải phóng thành Đại La. Dương Đình Nghệ mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước. Sau Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, chàng con rể trí dũng hơn người, lại đem quân từ Thanh Hoá giữ vững thành Đại La và làm nên chiến công Bạch Đằng sấm sét. Rồi Lê Hoàn tòng quân tuổi 16, ra đi từ làng quê Thanh Hoá, 50 năm chinh chiến và làm vua, bởi tình hình đất nước còn lắm nỗi lo toan, tuy đóng đô ở Hoa Lư, vẫn đặt Đại La dưới tầm kiểm soát.
Xây dựng thêm một Đại La thành “bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều” không phải những tên tướng xâm lược phương Bắc mà chính là họ Khúc, họ Ngô, họ Đinh, họ Lê, in khá sâu đậm dấu ấn Ái Châu-Thanh Hoá. Đó là thời kỳ văn hoá Đại La hay “Tiền Thăng Long”, nếu thiếu nền tảng ấy, nhà Lý không có cơ sở để dời đô.
Dời đô đến Thăng Long, Lý Thái tổ quan tâm văn hoá tinh thần, văn hoá tâm linh trước hết. Bắt đầu hình ảnh rồng vàng hiện lên để Đại La không còn là Đại La, mà hoá thành Thăng Long, kinh đô của Rồng Thiêng, của con cháu Lạc Long Quân – vua Rồng xứ Lạc. Tiếp theo, Lý Thái tổ suy tôn một vị thần rồng – thần Long Đỗ làm Quốc đô thành hoàng chủ kinh đô, đứng đầu các thần linh trong cả nước. Thần thiêng Thăng Long ngoài Long Đỗ còn có thánh Chèm, tức Lý Ông Trọng uy danh chấn động cả nước Trung Hoa, Cao Biền rất kinh sợ phải lập đàn thờ cúng…Nhưng văn hoá tinh thần, văn hoá tâm linh đối với nhà Lý buổi đầu dựng đô hẳn là vẫn chưa đủ để làm chỗ dựa cho tinh thần dân tộc, tạo nên sức mạnh đoạn kết dân tộc, đấu tranh, chiến thắng mọi kẻ thù địch. Năm 1020 (mười năm sau dời đô), Thái tổ nghe theo lời tâu của Thái tử Phật Mã rước thần núi Đồng Cổ ở Đan Nê, Yên Định, Thanh Hoá về thờ phụng trong thành Thăng Long. Năm 1028, Thái tổ mất, ba vương tử nổi loạn, Phật Mã phải nhờ thần núi Đồng Cổ và tướng quân Lê Phụng Hiểu lực sĩ xứ Thanh cứu giúp mới giữ yên được ngôi vị, bảo toàn xã tắc.
Từ đó, hàng năm nhà Lý mở Hội Thề tại đền Đồng Cổ. Thần được tôn là “Thiên hạ minh chủ”, bá quan văn võ triều đình đều phải đến tuyên thệ “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần linh tiêu diệt!”. Hội thề Đồng Cổ thành nét văn hoá mới đặc sắc của nhà nước Đại Việt duy trì từ Lý sang Trần, đến Lê suốt chiều dài lịch sử gần tám trăm năm! Thời Nguyễn, kinh đô chuyển về Thuận Hoá. Đồng Cổ sơn thần vẫn bất diệt với Thăng Long. Ý nghĩa giáo dục “con hiếu tôi trung” thấm sâu vào xã hội, góp phần hình thành một nét tính cách Thăng Long nghìn năm văn hiến.
Một trong những cảnh đẹp nhất Thăng Long là Tây Hồ, với “Bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái” với “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương…” Thời Lý, Hoa nương người Ái Châu (Thanh Hoá) kết duyên với Đoàn Thưởng, viên quan coi các nghề thủ công. Bà dạy dân ven hồ Dâm Đàm (hồ Tây) nghề dệt vải lụa. Bà mất, vua Lý truy phong là Thụ La công chúa, cho lập đền thờ ở ven hồ Dâm Đàm, dân địa phương tôn gọi là “Bà chúa dệt vải”. Vùng ven hồ Tây còn còn miếu thờ “Bà chúa nghề tằm” cũng người Thanh Hoá. Đời Lê Thánh tông, ông Trần Vĩ tuổi già nghỉ hưu, mở trường dạy học bên Hồ Tây. Trần Vĩ có cô con gái Quỳnh Hoa, gả cho chàng Liễu Nghị cùng quê làm tri phủ Hà Trung (Thanh Hoá). Sau khi Liễu Nghị mất, bà về nơi cha xưa mở trường dạy học, truyền nghề chăn tằm dệt lụa cho dân địa phương. Bà được tôn làm thần Thành hoàng làng và tên làng Nghi Tàm (kiểu mẫu nghề tằm tang) đặt ra từ đó.
Nếu Hoa nương Quỳnh Hoa đem tài hoa khéo léo “dệt” nên những bức tranh làng quê Yên Thái, Nghi Tàm, soi sáng “mặt gương Tây Hồ”, giữa “mịt mù khói toả ngàn sương”, thì những bàn tay thợ Thanh Hóa cũng góp phần tô điểm cho phố phường Thăng Long như Trọng Nghĩa, ông tổ nghề mộc, Nguyễn Kim, ông tổ nghề khảm trai…
Dệt nên huyền thoại Phủ Tây Hồ linh thiêng và thơ mộng cũng là một phụ nữ xứ Thanh: Liễu Hạnh công chúa! Bà vốn là tiên nữ trên trời thác sinh làm con gái ông Lê Công dòng dõi vua Lê Lợi, hương Lam Sơn. Bà lập đô ở Thanh Hóa, Phố Cát, nhưng tính thích ngao du sơn thuỷ, ưa dạo chơi danh lam thắng tích. Bà ra Thăng Long dựng lầu thơ bên bờ Hồ Tây, hút hồn bao danh sĩ Thăng Long, đem đến cho Thăng Long một thú vui chơi tao nhã.
Đóng góp lớn lao cho văn hoá văn nghệ Thăng Long đời Trần tiêu biểu là Lê Văn Hưu, Lê Bá Quát, Hồ Quý Ly…và một hiện tượng đặc biệt: Lê Thánh tông, ngôi sao sáng rực rỡ trên bầu trời văn chương Đại Việt.
Lê Văn Hưu, nhà sử học đâù tiên nước ta, người chép sử giỏi nhất một thời, cũng là thầy học của Thái sư Trần Quang Khải. Điều thú vị về bộ sử lớn Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Văn Hưu là người khởi thảo và Lê Hy-người hoàn chỉnh, cùng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thiệu Hoá-Đông Sơn bên bờ sông Mã.
Lê Bá Quát quê Phủ Lý cùng làng Lê Văn Hưu. Về chính trị, Lê Bá Quát làm tời chức Á tướng, được xem là bậc “hiền tài”, “cứng cỏi quả quyết”, về văn chương là cây bút “tài khí hùng hồn hơn người”.
Hồ Quý Ly đề cao chữ Nôm, làm sách Thi nghĩa bằng Quốc âm cho sư nữ dạy hậu phi và cung nhân học tập. Sách Minh đạo của ông, tuy vấn đề học thuật còn phải bàn chỗ này, chỗ kia, cũng là một bước đột phá quan trọng chống lối tư duy khuôn sáo “thuật nhi bất tác” của nhà Nho bảo thủ.
Lê Thánh tông, bậc minh quân, cháu nội Thái Tổ Cao hoàng đế Lê Lợi, 40 năm trị nước, đã đưa chế độ phong kiến Đại Việt phát triển đến cực thịnh, là tác gia lớn Việt Nam với kho tàng tác phẩm đồ sộ. Ông tổ chức Hội tao đàn đầu tiên của Thăng Long gồm 28 ngôi sao sáng thủ đô do Thiên Nam Động Chủ làm là Đô nguyên suý. Ở Lê Thánh tông, vị hoàng đế và nhà văn hoá là một “Trống dời canh còn đọc sách – Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”, “Lúc rảnh sau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, ta mắt xem rừng sách, lòng dạo vườn văn…”. Ông chế ra lễ nhạc, định ra pháp luật. Bộ luật Hồng Đức đến nay còn nhiều điểm giá trị. Ông tuyên bố trước quần thần: “Hình luật là hình luật của cả nước, ta và các ngươi đều cùng phải theo”. Khái niệm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bắt đầu từ ông, một hoàng đế phong kiến trung cổ.
Đời Hồng Đức, trên cở sở kinh tế phát triển, dân số tăng nhanh, làng xóm mở rộng. Làng nào cũng có đình để hội họp, miếu để thờ thần linh, lối hát Cửa Đình phát triển, đến đời Trung hưng trở nên phổ biến.
Hát Cửa Đình còn gọi là hát Ả Đào, Hát Nhà Trò, tên phổ biến hiện nay là Ca Trù. Thần tích “Tổ sư giáo phường Lỗ Khê” (Hà Nội) do Đông Các học sĩ Đào Cử soạn tháng Giêng năm Hồng Đức thứ 7 (1476), cho biết: “Đinh Lễ (quê Thọ Xuân) danh tướng Lam Sơn, vâng lệnh vua Lê Lợi đánh giặc Minh, dựng đồn trại ở Lỗ Khê, có con trai là Đinh Dự 12 tuổi thiên tư dĩnh ngộ, học vấn tinh thông, cầm kỳ thi hoạ, xướng ca đàn phách giỏi hơn người. Một hôm Đinh Dự chơi chùa Thiên Thai (Bắc Ninh) gặp người con gái tài sắc tên là Đường Hoa Tiên Hải từ động Nga Sơn, Thanh Hoá, ra truyền dạy ca hát ở các giáo phường. Hai người ý hợp tâm đầu, nguyện kết duyên cầm sắt rồi cùng về trang Lỗ Khê, Thăng Long mở giáo phường truyền nghề Hát Ả Đào. Sau khi Thái tổ lên ngôi, hai vợ chồng Đinh Dự đến đàn hát chúc mừng (Đinh Lễ là cha Đinh Dự, gọi Lê Lợi là cậu ruột hy sinh năm 1427). Vua Thái tổ ban yến tiệc xong, hai vợ chồng cùng hoá (mất). Xét vợ chồng Đinh Dự là bề tôi trung nghĩa, có công truyền bá nghề hát Ả Đào rất hay, Thái tổ triệu giáo phường các nơi lên kinh rước “Mỹ tự” (sắc phong) vua ban về lập đền thờ, và tứ cho các xã hàng năm tiết xuân thu mở hội kỳ phúc tổ chức để các giáo phường ca hát tế thần. Tới triều vua Hồng Đức (Lê Thánh tông), lại xét gia phong cho Đinh Dự là “Thanh Xà đại vương” và vợ là “Mãn Đường Hoa công chúa”…
Ngày nay, cạnh ngôi đình làng Lỗ Khê, còn đền thờ tổ sư giáo phường, quy mô nghi vệ đầy đủ. Thời Hậu Lê đến đời Nguyễn, giáo phường các nơi thuộc đồng bằng Bắc bộ: Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Hà Đông đều cử đại biểu về Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội) làm giỗ Tổ sư nghề hát của mình, vào ngày 13 tháng 11 âm lịch theo quy định trong Điển lễ thờ cúng từ đời Lê Thánh tông. Mới đây, tổ chức UNESCO công nhận “Ca trù Việt Nam là di sản văn hoá phi vật thể thế giới”, một trong những vinh quang của Văn hoá Thăng Long, cũng là vinh dự đóng góp của người Thanh Hoá.
Trong khoảng trên dưới 30 năm, nhà Hậu Lê đóng đô ở Thăng Long đã góp công sức lớn lao khó kể hết đối với Thăng Long và đất nước.
Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn vây chặt thành Đông Quan, theo lệnh Lê Lợi cố gắng bằng mọi cách để giải phóng Đông Quan, vẫn bảo toàn Thăng Long không bị quân Minh tàn phá. Điều không thể tránh khỏi, quân Minh rút về nước để lại hậu quả hết sức nặng nề: về kinh tế kiệt quệ, kho tàng rỗng không, nhà cửa hư hại…Lấp vào khoảng trống vô cùng to lớn ấy, Thanh Hoá đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Họ là vua chúa, quan chức, tướng lĩnh, quân lính, suốt 10 năm không tiếc máu xương, nay lại không quản công sức khôi phục kinh thành. Người Thanh Hoá, từ ông vua đến anh lính gia nhập Thăng Long với cả tài sản văn hoá tinh thần của quê hương mình, góp nên hương sắc Thăng Long nghìn năm văn vật, hình thành bản sắc Văn hoá Thăng Long, như những sợi chỉ hồng xuyên suốt nghìn năm lịch sử… Thời kỳ Văn hoá Thăng Long phồn thịnh nhất dưới triều Lê Thánh tông, riêng họ Nguyễn Gia Miêu, Hà Trung làm quan ở kinh đô đã tới hơn 200 người!
Cuối đời Lê sơ, kinh thành rối loạn, phe phái nổi lên xâu xé. Họ Nguyễn Gia Miêu dẫn đầu là Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim (con trai) tập hợp lính đánh dẹp bọn phản loạn. Hết lương về Thanh Hoá thu lương, hết quân về Thanh Hoá mộ quân. Các ông còn tổ chức khai hoang ngay tại quê nhà để có thóc gạo nuôi quân. Họ kiên quyết bảo vệ cơ đồ nhà Lê cũng là bảo vệ nhân dân Thăng Long với nền văn hoá lâu đời ấy.
Tiêu biểu cho giới nho sĩ Thanh Hoá thời Lê Trung hưng là Trạng nguyên Trịnh Huệ. Ông trải qua các chức vụ Đông các đại học sĩ, Thượng thư bộ lại, Thượng thư bộ hình, Tham tụng (tể tướng) phủ Chúa rồi suốt 25 năm làm Tế tửu Quốc Tử giám, trường đại học duy nhất Thăng Long – Việt Nam, trông coi việc đào tạo nhân tài cho cả nước. Một trong những học trò nổi tiếng của Trịnh Huệ là Nguyễn Hoàn quê Lan Khê, Nông Cống, đỗ hội nguyên tiến sĩ, làm quan đến Thượng thư bộ lại, Tham tụng (tể tướng) phủ Chúa, tước Hoàn quận công. Trịnh Huệ viết chuyên khảo bàn về “Tam giáo” rất được các nho sĩ tài danh Thăng Long Ngô Thì Sĩ, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn…tham gia hưởng ứng, gây không khí học thuật sôi nổi trong giới Nho học kinh kỳ nghìn xưa hiếm thấy.
Đóng góp xây dựng nền Văn hoá Thăng Long là trách nhiệm cũng là vinh quang của Thanh Hoá. Lịch sử không ngừng phát triển theo quy luật của nó: Tây Sơn, Nguyễn rồi 80 năm thực dân Pháp xâm lược, núi Nùng san phẳng, kinh thành đổi tên, nhưng Thăng Long vẫn là Thăng Long! Dấu tích Thanh Hoá vẫn còn đó với thắng cảnh Tây Hồ thơ mộng, phủ chúa Liễu linh thiêng, tượng Lê Thái tổ uy nghiêm, hồ Hoàn Kiếm huyền thoại, chùa Dục Khánh nơi ra đời Lê Thánh tông, đền Tổ sư Ca trù Đinh Dự…Nhưng đó chỉ là dấu ấn nổi, còn những sợi chỉ hoa gấm thì lặn chìm để góp dệt nên nền văn hoá Thăng Long mãi mãi tươi sáng, trường tồn cùng sông núi Việt Nam.
Ngày mùng 1 tháng 7 năm Nhâm Dân (29/07/2022) là chính kỵ của Bình Ngô Khai quốc Công thần Thái bảo Hoằng quốc công Nguyễn Công Duẩn. Ngài là người có công lao lớn trong việc cung cấp và quản lý quân lương trong khởi nghĩa Lam Sơn, nên khi Lê Thái Tổ lên ngôi đã ban cho quốc tính Lê và gần 500 mẫu ruộng lộc. Việc thờ cúng Ngài tại đình làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (Hà Trung), Thanh Hoá do làng xã và tổng huyện đảm trách.

Hoằng quốc công là tổ của 7 chi họ Nguyễn gốc Gia Miêu, là cha ông tiên tổ của nhiều nhân vật lịch sử nổi danh như:

  • Trinh quốc công Nguyễn Đức Trung
  • An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ
  • Nghĩa Huân vương Nguyễn Văn Lang
  • Chiêu Huân tĩnh công Nguyễn Kim
  • Chúa tiên Nguyễn Hoàng
  • Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều
  • Hoàng đế Gia Long Nguyễn Phúc Ánh....
Qua bao nhiêu năm gián đoạn do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, năm nay 2022 lần đầu tiên có đại diện đầy đủ con cháu 7 đại chi của gần 40 dòng, chi, phái trên cả nước về tham dự lễ giỗ.


NHÂN LỄ GIỖ CỦA HƯNG QUỐC CÔNG NGUYỄN KIM, XIN CHIA SẺ ĐÔI CHÚT VỀ DÒNG HỌ VÀ HẬU DUỆ CỦA NGÀI

Hoằng quốc công Nguyễn Công Duẩn, sinh ra 7 người con trai, là tổ của 7 họ Nguyễn Gia Miêu. Con trai thứ tư là Phó Giám hầu Nguyễn Như Trác lại sinh ra Trừng quốc công Nguyễn Văn Lưu. Trừng quốc công sinh ra Chiêu Huân Tĩnh công Nguyễn Kim, sau triều Nguyễn tôn phong là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế, vị công thần bậc nhất trong sự nghiệp trung hưng nhà Lê.

Mặc dù phải trải qua bao thăng trầm nhưng dòng họ vẫn trường tồn và phát triển, đạt đến cực thịnh dưới thời Lê trung hưng, tại Bắc Hà người trong họ làm quan đứng kín sân chầu, tên tuổi chép đầy sách sử, ở phía Nam con cháu xưng vương, gọi chúa, vẻ vang danh giá, nước Đại Việt chẳng có thứ hai.

Khi nhà Tây Sơn dựng nghiệp, đất Nam Hà chúa Nguyễn lưu vong; vua Lê, chúa Trịnh mất đi ngôi báu. Vì là nội tộc Nguyễn Vương, ngoại tộc Hoàng Lê, Trịnh chúa mà dòng họ Nguyễn Gia Miêu ở Bắc Hà một phen tan tác, có người phải đổi họ thay tên, lại có người chạy về miền thôn dã ẩn thân. Đất tổ Gia Miêu thành quân doanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.

Năm 1802, chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, nghĩ rằng: khi gian khó mà phải vạ thân, lúc hiển vinh thì cùng nhau hưởng phúc, bèn ban chiếu Chiêu Vấn Công Tính Công Tộc, hễ ai là con cháu trong họ Nguyễn Gia Miêu thì kê nộp gia phả, bằng chứng rõ ràng. Những người trong 7 chi đều ban Công Tính Nguyễn Hựu. Riêng chi thứ 4 là chính chi, ai là con cháu của Triệu Tổ Nguyễn Kim nếu đi theo Thái Tổ Nguyễn Hoàng vào Nam thì gọi là Tôn Thất Nguyễn Phúc, ai ở ngoài Bắc Hà sẽ được khâm ban Công Tính Chính Chi Nguyễn Hựu [祐]. Họ hàng thân mật, được lai kinh dự yến cùng vua, vua lại về quê lấy đất lập quốc miếu thờ cha ông, dựng Phương cơ làm nơi bái vọng lên núi Thiên Tôn, là huyệt thiêng an táng bao đời tiên tổ.

Niềm vui ngắn chẳng tày gang.
Xứ Cao Bằng có Bế Văn Khôi, hậu duệ của Uy xuân hầu Nguyễn Tông Thái, là em ruột của Triệu tổ Nguyễn Kim, theo lệnh triều đình nối đời trấn ải nơi biên viễn, đổi là họ Bế.
Ông Bế Khôi làm con nuôi của Tả quân Lê Văn Duyệt nên cũng gọi Lê Văn Khôi, sau vì là cùng chi, cùng họ với vua mới được ban Hoàng triều Khâm phân Công Tính Chính Chi Nguyễn Hựu Khôi. Vì bất mãn với triều đình đã dấy binh chống đối, khiến cho vua Minh Mạng vì thế mà xoá bỏ chữ "Hựu" trong tên của bà con các chi họ Công tính. Từ đây sợi dây kết nối lại mong manh dần.....

Họ Nguyễn Gia Miêu là dòng danh gia vọng tộc, nối đời lương đống quốc gia, đồng hành cùng tiến trình lịch sử. Từ miền sơn cước Cao Bằng, Lạng Sơn có người họ Bế Nguyễn canh giữ nơi phên dậu. Hay định làng, lập ấp, lấn biển đào mương để có những làng xóm vùng ven biển Nam Định, Thái Bình.

Quai đê chắn sóng mà cả vùng huyện Nga Sơn nơi có cửa Thần Phù hiểm ác thành ruộng thành vườn. Mang gươm mở cõi hết lớp người này, đến lớp người kia vào Nam lập nghiệp. Khi theo vua Lê Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành, lúc cùng Trinh quốc công Nguyễn Đức Trung đến xứ Thuận Hoá mà thuần hoá người Chiêm để giờ đây cả vùng Quảng Nam - Đà Nẵng chỗ nào cũng thấy người họ Nguyễn Gia Miêu

Chẳng ngại gian lao vất vả con cháu trong họ lại đưa nhau đi theo chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào nơi cát trắng, đất cằn khai phá những vùng sơn lam chướng khi, hay lênh đênh biển cả, sóng to cắm lêu trên đảo đá để giữ chủ quyền. Tận sâu vùng U Minh, trên cạn cọp beo, dưới nước thuồng luồng, cá sấu Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vẫn dẫn theo con cháu họ hàng khai canh lập ấp.

Cả dải đất nước này chẳng chỗ nào thiếu dấu chân người họ Nguyễn Gia Miêu!!!
 
Last edited:

VPC-HC

Người nổi tiếng
Bận mấy hôm nay mới vào, ôi bạn ơi, bạn xem mình nói gì nhỉ, bạn tự nhận quê hương khoa bảng hiển hách, rồi bảo Thanh Hóa mới chỉ nổi vài chục năm trở lại, mình cũng chưa nói BẮc Ninh không có truyền thống hay không mà nhấn mạnh theo quan điểm của mình " Truyền Thống chỉ được gọi khi có tính kế thừa bền bỉ qua ngàn năm mà không bị đứt gãy", mình cho bạn xem cái DS Thủ Khoa Nho Học Việt Nam khi chưa phân Trạng Nguyên, nếu bạn tự nhận kiến thức dồi dào thì tìm hiểu xem quê quán họ đến từ đâu xem thế nào nhé

Mình cần làm rõ cái khái niệm : " Truyền Thống Khoa Bảng " ở đây là gì, đừng đánh tráo sang khái niệm quê tôi nhiều Trạng Nguyên nhất thì mới được gọi là truyền thống bla bla =)))))))

Cái bảng DS Trạng Nguyên Wiki là cái bảng chẳng có kiểm chứng gì, mình xem nó từ khá lâu rồi không phải Thủ Khoa nào cũng liệt kê vào Danh Sách, cũng như không phải cứ danh xưng Trạng Nguyên thì mặc định chỉ họ mới là người đỗ cao nhất, như trường hợp của Lưu Diễm, Lương Đắc Bằng về thực tế họ chính là đồng Trạng Nguyên nhưng không hề liệt kê, theo mình tìm hiểu thì hình như Bắc Ninh không có Đình Nguyên nào thì phải

View attachment 3465


Bảng Nhãn Việt Nam

có gì sai nhỉ, trạng nguyên Bắc Ninh vẫn có 16, còn lại là bảng nhãn thám hoa, chiếm 1/3 cả nước. Cái này đã được truyền thông nói rất nhiều trên truyền hình hay các sự kiện văn hóa giáo dục của Bắc Ninh, chỉ là bạn không biết thôi :) văn miếu Bắc Ninh có bia đá như văn miêu quốc tử giám lưu danh tất cả các vị quê Bắc Ninh đấy, bạn có điều kiện có thể đến xem
 
Last edited:

Hac.thanh

Moderator
Staff member
có gì sai nhỉ, trạng nguyên Bắc Ninh vẫn có 16, còn lại là bảng nhãn thám hoa, chiếm 1/3 cả nước. Cái này đã được truyền thông nói rất nhiều trên truyền hình hay các sự kiện văn hóa giáo dục của Bắc Ninh, chỉ là bạn không biết thôi :) văn miếu Bắc Ninh có bia đá như văn miêu quốc tử giám lưu danh tất cả các vị quê Bắc Ninh đấy, bạn có điều kiện có thể đến xem
Bắc ninh ở đây có gồm Bắc Giang và một phần của Hà Nội không?
Tỷ dụ Đông Anh ngày xưa cũng thuộc Bắc Ninh
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Nhà bác học Phan Huy Chú đã lý giải: “Thanh Hóa mạch núi cao chót vót, sông lớn lượn quanh, biển ởphía Đông, Ai Lao ởphía Tây, Bắc giáp trấn Sơn Nam, Nam giáp đạo Nghệ An. Núi sông rất đẹp, là một chỗ đất có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Đến Lê lại là nơi căn bản. Vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý, cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước”
“làng Đông Ngạc (TừLiêm, Hà Nội) là làng khoa bảng nổi tiếng, trong đó các tiến sĩ mạch văn tập trung vào 4 họ: Phạm, Phan, Nguyễn, Hoàng và hai dòng họ Nguyễn khác, trong đó ba họ chuyển cư từ Thanh Hóa ra”
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Ngay từ khi nền Nho học của nước ta chưa bắt đầu, thời thuộc Đường (618-905), hai anh em Khương Công Phục và Khương Công Phụ, người thôn Cẩm Châu, xã Tường Vân (nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) đã sang tận Trung Quốc dự thi và đều đỗ Tiến sĩ. “Đây chính là hai người đã có công khai mạch đại khoa Nho học đầu tiên cho cả nước ta, người đầu tiên đạt học vị Tiến sĩ Hán học”
 

Harley Quinn

Người nổi tiếng
Qua danh sách này có thể thấy, các địa phương có thành tích giáo dục tốt hiện nay đều được kế thừa và vẫn giữ được phong độ xuyên suốt hàng trăm năm, rất hiếm có trường hợp nào không có truyền thống mà có thể nổi được vài chục năm gần đây, vì truyền thống khoa bảng không chỉ đơn thuần cố gắng là được mà còn là tố chất và sự tích lũy học thức qua hàng thế hệ

Đáng chú ý là khoa bảng Nghệ An nở rổ khá muộn so với nhiều địa phương khác, bắt đầu nổi bật từ đầu thế kỉ 18


 
L

leu leu

Khách vãng lai
Gớm có mỗi bài về học mà viết mấy page chưa hết. Nói thật mấy vùng đất nghèo thì mới có cái gọi là đất học như Nam Đinh, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Thái Bình.... chứ như QN đẻ ra thì bố mẹ là quan chức, không thì du lịch, kinh doanh buôn bán biên mậu... từ bé đã biết đến tiền thì chẳng cần mấy cái gọi là đất học. Còn thằng nào học được thì giỏi hẳn như mấy thằng Olyimpia chẳng hạn.
 

Harley Quinn

Người nổi tiếng
Nhà bác học Phan Huy Chú đã lý giải: “Thanh Hóa mạch núi cao chót vót, sông lớn lượn quanh, biển ởphía Đông, Ai Lao ởphía Tây, Bắc giáp trấn Sơn Nam, Nam giáp đạo Nghệ An. Núi sông rất đẹp, là một chỗ đất có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Đến Lê lại là nơi căn bản. Vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý, cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước”
“làng Đông Ngạc (TừLiêm, Hà Nội) là làng khoa bảng nổi tiếng, trong đó các tiến sĩ mạch văn tập trung vào 4 họ: Phạm, Phan, Nguyễn, Hoàng và hai dòng họ Nguyễn khác, trong đó ba họ chuyển cư từ Thanh Hóa ra”
Có rất nhiều dòng họ khoa bảng ở khu vực Đồng Bằng Sông Hồng này di cư từ Thanh Hóa ra, suốt 600 năm người Thanh Hóa làm Vua, làm Quan rất nhiều tinh hoa của Xứ Thanh tỏa đi khắp các vùng, định làng lập ấp, đây cũng là 600 năm Nho Giáo và khoa cử rực rỡ nhất lịch sử phong kiến

Nếu như truy xuất đầy đủ nguyên quán thì không rõ đâu mới là nơi khoa bảng hiển hách nhất nước Nam này
 
Last edited:

Facebook Comment

Bài viết mới

Chủ đề được quan tâm nhất

Top