• Lưu ý đọc kỹ nội quy trước khi đăng bài để tránh bị bannick, xóa bài. Xem hướng dẫn đăng bài và tính năng UP tin miễn phí
  • Thông báo về việc đăng bài & đăng ký thành viên áp dụng tại thread Hot news, Projects & Developments
    - Phải đăng ký thành viên mới có thể đăng bài tại thread này.
    - Nếu gặp khó khăn khi đăng ký, vui lòng liên hệ qua email : thanhhoaonline.net@gmail.com để được hỗ trợ đăng ký và kích hoạt tài khoản.

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh vừa qua có hồ sơ đề nghị điều chỉnh dự án đầu tư từ 11 tỷ USD lên hơn 11,6 tỷ USD.

Việc tăng vốn được nói do điều chỉnh số tiền đầu tư một số hạng mục, máy móc thiết bị, đồng thời xây mới xưởng than hóa học trị giá 18 triệu USD, tăng vốn góp từ 4,5 tỷ USD lên đến 5 tỷ USD.
PS: Anh nghèo Hà Tĩnh chỉ 1 dự án này mà leo lên trên cả tỉnh ta về thu hút FDI.
Tuy nhiên GRDP từ lọc dầu sẽ lớn hơn và lọc hóa dầu có ảnh hưởng đến nhiều ngành công nghiệp hơn.
Hy vọng sớm có thêm 5 tỷ USD từ giai đoạn 2
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Khẩn trương thực hiện các yêu cầu, thủ tục về xây dựng cụm công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may
(THO) - Chiều 14 – 3, đồng chí Nguyễn Đình Xứng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã đi kiểm tra thực địa tại huyện Hoằng Hóa và nghe các phương án triển khai đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp (CCN) hỗ trợ ngành dệt may.

Đại diện lãnh đạo các ngành chức năng liên quan, huyện Hoằng Hóa và đơn vị đề nghị thi công hạ tầng CCN hỗ trợ ngành dệt may là Công ty CP Đầu tư hạ tầng Khu Công nghiệp Thanh Hóa cùng tham gia.

Trước khi có buổi làm việc với các ngành chức năng, huyện Hoằng Hóa và chủ đầu tư CCN, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đình Xứng và các thành viên đoàn công tác đã đi khảo sát tại Khu Công nghiệp Hoàng Long và CCN Bắc Hoằng Hóa. Tại buổi làm việc, đại diện các ngành chức năng đã phân tích các điều kiện liên quan và cho rằng nên chọn CCN Bắc Hoằng Hóa để xây dựng thành CCN Hỗ trợ ngành dệt may của tỉnh bởi có nhiều ưu điểm, như: Gần nguồn nước, nguồn điện, tiền thuê đất thấp, thuận lợi giao thông, có nguồn lao động tại chỗ dồi dào... Công ty CP Đầu tư hạ tầng Khu Công nghiệp Thanh Hóa cũng mong muốn được đầu tư xây dựng hạ tầng CCN hỗ trợ ngành dệt may tại địa điểm quy hoạch CCN Bắc Hoằng Hóa.

Phát biểu kết luận tại buổi làm việc, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đình Xứng khẳng định, dệt may là ngành nghề sử dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng cao. Tỉnh ta có nguồn lao động dồi dào, có lợi thế lớn để phát triển ngành công nghiệp này. Theo các hiệp định quốc tế mới nhất, nhất là Hiệp định CPTPP, yêu cầu nguyên liệu dệt may phải có xuất xứ trong nước, nên rất cần thành lập CCN hỗ trợ ngành dệt may. Hơn nữa, xu hướng phát triển ngành dệt may cũng có nhiều dấu hiệu tốt, nếu không kịp thời đa dạng hóa ngành này thì sẽ lỗi thời trong tương lai. Theo đó, việc thành lập CCN hỗ trợ ngành dệt may tại Thanh Hóa là cần thiết.



Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đình Xứng phát biểu kết luận tại buổi làm việc.

Trên cơ sở phân tích và ý kiến của các ngành, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh thống nhất chọn CCN Bắc Hoằng Hóa làm CCN hỗ trợ ngành dệt may. Đồng thời, thống nhất để Công ty CP Đầu tư hạ tầng Khu Công nghiệp Thanh Hóa làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng CCN này. Tuy nhiên, đồng chí chỉ đạo các ngành và đơn vị chủ đầu tư hạ tầng phải tiếp tục tính toán kỹ đến vấn đề xử lý môi trường, tạo việc làm cho lao động, đồng thời phải điều chỉnh quy hoạch từ CCN đa ngành thành CCN hỗ trợ ngành dệt may. Các ngành có trách nhiệm tạo điều kiện giải quyết các thủ tục về quy hoạch, xây dựng, đất đai, giải phóng mặt bằng để triển khai xây dựng hạ tầng.



Đại diện Sở Công Thương đóng góp ý kiến tại buổi làm việc.

Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu, công ty phải sớm thuê tư vấn để thiết kế hệ thống cấp thoát nước, trung tâm xử lý nước thải..., đồng thời phối hợp với Sở Công Thương và các ngành liên quan, mời các nhà đầu tư đang có nhu cầu đến đầu tư tại đây để xúc tiến, kêu gọi đầu tư. Đồng chí chỉ đạo, phải xây dựng CCN này thành CCN mẫu mực về tiêu chuẩn hạ tầng, xử lý nước thải, đường giao thông trong CCN. Tiến độ xây dựng hạ tầng CCN này phải được đẩy nhanh bởi một số nhà đầu tư trong và ngoài nước về lĩnh vực hỗ trợ dệt may đã xúc tiến để đầu tư vào Thanh Hóa, nếu xây dựng hạ tầng quá lâu sẽ mất đi cơ hội thu hút đầu tư.
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Khu đất gần 9000 m2 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh trên ĐL Lê Lợi sắp được bàn giao lại cho UBND tỉnh quản lý sử dụng. Quả này lại lắm anh thèm thuồng, vị trí ngay trung tâm tp.
Hy vọng đừng lợi ích nhóm chia lô bán nền hoặc làm công trình vớ vẩn.
Chỗ đó nên đấu giá làm TTTM, Hotel 5 sao
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Một 5 sao đẳng cấp!
Vậy là 2 ks 5 sao! Nhu cầu hotel cao cấp tại TP Thanh Hóa sắp tới tăng cao khi Khu liên hợp lọc dầu hoàn thành, nhiệt điện khởi công.
Các doanh nghiệp lớn FDI đến tìm hiểu đầu tư, họ cần những Hotel đẳng cấp thế này để lưu trú!
 

Harley Quinn

Người nổi tiếng
Xung đột vùng - miền giữa các tộc Việt từ thế kỷ XIII đến XIX

Tác giả bài viết này * là GS khoa Nghiên cứu Châu Á, Đại học Cornell, một chuyên gia về lịch sử Việt Nam thời Cổ đại và Trung đại. Nếu trước kia ông chủ trương lịch sử Việt Nam là một sự “phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục”, thì gần đây ông có những thay đổi trong các lập luận nghiên cứu.

Có bằng chứng về xung đột tại các điạ phận được cho là nơi tổ tiên người Việt hiện đại từng cư trú thời xưa nhất mà văn bản còn ghi lại, dù là chuyện về các Vua Hùng huyền thoại, hay các văn bản còn lưu giữ tại Trung Quốc, hay những sự kiện ghi trong biên niên sử của Việt Nam.

Trong những năm cuối trị vì của Lê Hoàn, vào đầu thế kỷ 11, các cuộc chinh phạt của triều đình liên tục tấn công những cư dân của khu vực này mà nay là các tỉnh Vĩnh Phú, Thanh Hoá và Nghệ An , tất cả toạ lạc ở bên rìa hay bên ngoài đồng bằng sông Hồng rộng lớn, nơi khi đó là trung tâm quyền lực của Hoàng gia. Con trai và là người nối nghiệp của Lê Hoàn, Lê (Long) Đĩnh, tiếp tục đưa quân tấn công các dân tộc ở Thanh Hoá và Nghệ An và xây một con đường xuyên qua các tỉnh miền Nam này để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các cuộc chinh phạt .

Vị vua tiếp theo, Lý Công Uẩn cũng mở chiến dịch chống các tỉnh miền nam này, nói rằng ông không thể không tấn công người dân Nghệ An vì họ “không tôn trọng những hướng dẫn khai hoá. Những dấu hiệu chiến tranh trong đầu thế kỷ 11, khi một chế độ triều đình địa phương đang bắt đầu hình thành, có thể được hình dung như cuộc xung đột giữa tổ tiên của những dân tộc mà trong thời hiện đại đã được phân biệt theo ngôn ngữ và xã hội là các chi người Kinh (vùng thấp) và người Mường (vùng cao) của các dân tộc Việt. Đó không phải là những chương riêng lẻ.

Hai cuộc xung đột đầu tiên trong sáu xung đột tôi muốn nhắc đến diễn ra giữa nơi tôi gọi là Đông Kinh, tức đồng bằng sông Hồng mà trung tâm là Hà Nội, với Thanh Nghệ, toạ lạc nơi miền nam và bao gồm các tĩnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh. Cần nhắc rằng phương ngữ tại phần phía nam của Thanh Nghệ, tức Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh) lại gần với tiếng Mường hơn là tiếng Kinh.

Ngay cả hiện nay, giữa những người làm việc trong chính phủ và giới khoa bảng ở Hà Nội cũng có sự nhận thức về tương quan ảnh hưởng và quyền lực giữa người từ Hà Nội và các tỉnh xung quanh với người từ Thanh Nghệ (Thanh Nghệ Tĩnh hay Nghệ Tĩnh).

Không phải ai cũng nhớ rằng các khu vực này đã từng gây chiến với nhau trong đầu thế kỷ 15 và hầu như trong suốt thế kỷ 16.

Chương xung đột đầu tiên tôi chọn để thảo luận đã hầu như bị chôn sâu đằng sau khung viết sử theo hình thức kháng chiến chống ách đô hộ quân Minh trong ba thập niên đầu tiên của thế kỷ 15. Nhưng cái điều được xác quyết hời hợt như cuộc chiến “giải phóng dân tộc” lại có vẻ khác hẳn khi được xem xét kỹ.

Vào cuối thế kỷ 14 Hồ Quý Ly đã kiểm soát triều Trần và năm 1400 tự lập triều đại riêng. Trong khi nhà Trần là người thuộc đồng bằng sông Hồng, Hồ Quý Ly là người từ Thanh Nghệ, và ông xây một thủ đô mới ở Thanh Hoá. Việc ông không dành được sự trung thành của vùng Đông Kinh là một yếu tố quan trọng trong việc nhà Hồ không chống nổi cuộc xâm lược của nhà Minh năm 1406 - 1407, thời điểm khi Hồ Quý Ly từ bỏ phần lớn khu vực Đông Kinh và tìm cách phòng thủ bờ nam của sông. Hồng.

Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu của Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này, đặc biệt là họ Mạc đã trung thành phục vụ quân Minh. Năm 1407 người Minh nói hơn 1100 nhân vật có thế lực địa phương bày tỏ sự trung thành với nhà Minhvà yêu cầu vùng đất của họ sát nhập vào đế chế Trung Hoa. Tài liệu của nhà Minh ghi lại rằng hơn 9000 người địa phương sau đó đã đến thủ đô nhà Minh để được sắc phong làm quan chức cấp tỉnh. Hiệu lực của sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương .

Không khó để đọc cái gọi là “phong trào giải phóng dân tộc” của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh như thế lực bảo vệ chống sự quê kệch của các tỉnh phía nam. Cái nhìn này đi ngược với cách viết sử của nhà Lê và cách viết sử dân tộc chủ nghĩa thời hiện đại, nhưng khi xét các sự kiện về sau, nó lại đáng tin hơn so với khuynh hướng thông thường giả tảng như nhiều ngàn người phục vụ quân Minh hoặc đã biến mất vào màn sương phương Bắc hoặc bỗng dưng quay lại thành người yêu nước.

Vai trò của Nguyễn Trãi, sĩ phu Đông Kinh nổi tiếng và là người về Nam để ra nhập đoàn quân Lê Lợi ở Thanh Nghệ, không phải là nhân vật tiêu biểu hay đại diện cho xu thế chung ở quê ông. Các bài thơ ông viết trong thời Minh và trước lúc ông về nam phục vụ Lê Lợi thể hiện như cách dùng từ của O. W. Wolters “một người xa lạ ngay trên mảnh đất của mình”. Nhiều bài văn ông viết sau khi ông về nam là những lá thư gửi người cùng thời phục vụ nhà Minh, thúc giục họ quay sang phục vụ Lê Lợi . Sau này Nguyễn Trãi bị cô lập và triệt tiêu - bị cáo buộc tội giết vua và bị sử trảm năm 1442. Thảm kịch này chắc chắn có sự tác động của việc ông đã tách mình khỏi cả những người đồng hương ở Đông Kinh để phục vụ quyền lợi của Thanh Nghệ. Mặt khác, những bài thuyết lý của ông về cách cai trị và nỗ lực muốn đưa thêm người Đông Kinh vào phục vụ công việc triều chính lại khiến ông bị cô lập bởi những thế lực đang lên từ Thanh Nghệ.

Lê Thánh Tông (trị vì 1460 - 1497) thường được xem là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam bởi vì ông tạo lập được một chính quyền trung ương kiểu Trung Hoa và đã có cuộc chinh phục Champa. Thế nhưng thành tựu quan trọng nhất của ông lại không thường được công nhận: đó là thành công của ông trong việc tập hợp đoàn cận thần dung hoà cả quyền lợi của Đông Kinh và Thanh Nghệ.

Triều đại của ông và âm hưởng trong sự trị vì của người con nối nghiệp đã tạm thời dập tắt căng thẳng nhờ việc đáp ứng các quyền lợi của các phe. Một khía cạnh trong sự đáp ứng này là việc chinh phục lãnh đạo người Chàm ra tới đèo Cù Mông, ở biên giới phía nam sau đó là tỉnh Bình Định. Nó đem lại cho phe Thanh Nghệ một khoảng không gian mới cho tham vọng của họ. Một khía cạnh khác trong sự đáp ứng quyền lợi này là các khoa thi tạo cơ hội nhập triều chính cho những người Đông Kinh có gia đình từng phục vụ người Minh .

Tuy vậy thành công của vua Lê Thánh Tông phần lớn bắt nguồn từ uy tín cá nhân của ông. Nó thể hiện rõ khi chỉ hơn một thập niên sau khi ông mất, triều đình bắt đầu phân rã thành những phe nhóm diệt nhau để rồi sau đó khởi đầu cho ba thế hệ chiến tranh giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ, tức là cuộc nội chiến Lê - Mạc của thế kỷ 16. Đây là chương xung đột thứ 2 mà tôi chọn thảo luận trong bài viết này.

* Sự hỗn loạn trong đầu thế kỷ 16 thể hiện qua những cuộc nổi dậy của nhân dân ở Đông Kinh, mà lớn nhất là của Trần Cao. Đó là một nhà sư tự nhận mình là Đế Thích giáng sinh và hậu duệ nhà Trần. Những sự hỗn loạn này có thể dễ dàng được hiểu là phản ứng mang tính phật giáo của Đông Kinh trước thay đổi được gán cho triều Lê của Thanh Nghệ và yếu tố nho giáo của nó . Nhân vật tái lập trật tự ở Đông Kinh, Mạc Đăng Dung là thành viên trong cùng gia đình họ Mạc mà từng ủng hộ nhà Minh một thế kỷ trước.

Ông tập hợp nhóm cận thần mở rộng cửa cho các gia đình Đông Kinh và thành công trong việc huy động sự ủng hộ của địa phương . Một chi tiết quan trọng nhưng ít được nhắc tới là Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ 16 và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này.

Trịnh Tùng, người dẫn đầu cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh trong thập niên 1590, đã tổ chức sự chiếm đóng quân sự tại Đông Kinh mà vẫn còn thể hiện rõ khi Alexandre de Rhodes sống ở đó trong thập niên 1620 - 1630.

Alexandre de Rhodes tường thuật có vẻ với sự phóng đại rằng 50.000 lính từ Thanh Nghệ đóng thường trực tại “Hoàng Thành” ở Đông Kinh để bảo vệ những người trị vì và đàn áp các cuộc nổi dậy ở các tỉnh xung quanh Hà Nội. Bên cạnh đó còn là các đoàn thuỷ quân lớn tuần tra trên sông “để bảo vệ ông hoàng trước mọi phe phản loạn” .

Cho đến tận năm 1630, các cuộc càn quét của họ Mạc từ thung lũng Cao Bằng phía bắc, nơi nhà Mạc tiếp tục trị vì cho đến thập niên 1670 thể hiện dư âm cuộc nổi dậy chống lại nhà Trịnh của những cư dân vùng phía Đông Kinh. Cho mãi đến thập niên 1630, dưới sức ép thất bại quân sự ở miền nam, nhà Trịnh mới bắt đầu thu phục nhiều người Đông Kinh dưới trướng của họ.

Kết quả của việc này là cuộc xung đột phe nhóm kéo dài dựa trên các cạnh tranh quyền lợi địa phương . Các căng thẳng tương tự cũng thể hiện trong các cuộc nổi loạn lan rộng hầu khắp Đông Kinh trong thập niên 1740, 1750 và 1760 khi các đoàn quân nông dân địa phương bị lính từ Thanh Nghệ đàn áp sau nhiều năm đánh nhau.

Qua những gì trình bày, điều mà tôi hy vọng thể hiện là cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt Nam. Đông Kinh là đồng bằng trồng lúa rộng lớn với dân số tương đối đông dọc các dòng sông và biển; người dân ở đây xem vùng rừng núi chủ yếu là điều gì đó xa lạ.

Thanh Nghệ chạy dài vào miền nam với đồng lúa thưa thớt giữa các đồi và núi; đồi núi ở nhiều nơi kéo dài ra vùng duyên hải; những người trồng lúa sống như các láng giềng gần của các nhóm miền núi cao có cách sống ít mang tính nông nghiệp hơn.

Trong nhiều thế kỷ:

- Đông Kinh dày đặc các chùa chiền và lâu đài; các quan lại người Trung Hoa và vua nước Việt đã cai trị ở Đông Kinh nhiều thế kỷ,

- Thanh Nghệ là vùng biên giới tương đối hoang vu giữa Đông Kinh và khu vực người Chăm ở phía nam. Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh

Đó là nơi tuyển quân cho triều đình và là quê hương của những người nghĩ rằng họ phải lao động kham khổ giữa sự nhũng lạm miền Bắc của Đông Kinh.
Đông Kinh, mặc dù có liên hệ chặt chẽ hơn với văn hoá Trung Hoa, không thể cạnh tranh về mặt quân sự với Thanh Nghệ, bởi vì đằng sau Thanh Nghệ là một vùng rộng lớn của những người nói tiếng Việt, một kho tiềm tàng nguồn nhân lực bổ sung lính nhập ngũ, những người không quen và không chịu ràng buộc bởi những lề thói của người nông dân trồng lúa.

Đổi lại, Thanh Nghệ không thể thống trị khu vực nếu nó mở rộng ra ngoài tầm với của Thanh Nghệ trong thế kỷ 17, nỗ lực trong suốt nhiều năm của Thanh Nghệ muốn kiểm soát các lãnh địa nằm sâu về hướng nam đã kết thúc trong thất bại.

 
Last edited:

Titan

Người nổi tiếng
Xung đột vùng - miền giữa các tộc Việt từ thế kỷ XIII đến XIX

Tác giả bài viết này * là GS khoa Nghiên cứu Châu Á, Đại học Cornell, một chuyên gia về lịch sử Việt Nam thời Cổ đại và Trung đại. Nếu trước kia ông chủ trương lịch sử Việt Nam là một sự “phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục”, thì gần đây ông có những thay đổi trong các lập luận nghiên cứu.

Có bằng chứng về xung đột tại các điạ phận được cho là nơi tổ tiên người Việt hiện đại từng cư trú thời xưa nhất mà văn bản còn ghi lại, dù là chuyện về các Vua Hùng huyền thoại, hay các văn bản còn lưu giữ tại Trung Quốc, hay những sự kiện ghi trong biên niên sử của Việt Nam.

Trong những năm cuối trị vì của Lê Hoàn, vào đầu thế kỷ 11, các cuộc chinh phạt của triều đình liên tục tấn công những cư dân của khu vực này mà nay là các tỉnh Vĩnh Phú, Thanh Hoá và Nghệ An , tất cả toạ lạc ở bên rìa hay bên ngoài đồng bằng sông Hồng rộng lớn, nơi khi đó là trung tâm quyền lực của Hoàng gia. Con trai và là người nối nghiệp của Lê Hoàn, Lê (Long) Đĩnh, tiếp tục đưa quân tấn công các dân tộc ở Thanh Hoá và Nghệ An và xây một con đường xuyên qua các tỉnh miền Nam này để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các cuộc chinh phạt .

Vị vua tiếp theo, Lý Công Uẩn cũng mở chiến dịch chống các tỉnh miền nam này, nói rằng ông không thể không tấn công người dân Nghệ An vì họ “không tôn trọng những hướng dẫn khai hoá. Những dấu hiệu chiến tranh trong đầu thế kỷ 11, khi một chế độ triều đình địa phương đang bắt đầu hình thành, có thể được hình dung như cuộc xung đột giữa tổ tiên của những dân tộc mà trong thời hiện đại đã được phân biệt theo ngôn ngữ và xã hội là các chi người Kinh (vùng thấp) và người Mường (vùng cao) của các dân tộc Việt. Đó không phải là những chương riêng lẻ.

Hai cuộc xung đột đầu tiên trong sáu xung đột tôi muốn nhắc đến diễn ra giữa nơi tôi gọi là Đông Kinh, tức đồng bằng sông Hồng mà trung tâm là Hà Nội, với Thanh Nghệ, toạ lạc nơi miền nam và bao gồm các tĩnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh. Cần nhắc rằng phương ngữ tại phần phía nam của Thanh Nghệ, tức Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh) lại gần với tiếng Mường hơn là tiếng Kinh.

Ngay cả hiện nay, giữa những người làm việc trong chính phủ và giới khoa bảng ở Hà Nội cũng có sự nhận thức về tương quan ảnh hưởng và quyền lực giữa người từ Hà Nội và các tỉnh xung quanh với người từ Thanh Nghệ (Thanh Nghệ Tĩnh hay Nghệ Tĩnh).

Không phải ai cũng nhớ rằng các khu vực này đã từng gây chiến với nhau trong đầu thế kỷ 15 và hầu như trong suốt thế kỷ 16.

Chương xung đột đầu tiên tôi chọn để thảo luận đã hầu như bị chôn sâu đằng sau khung viết sử theo hình thức kháng chiến chống ách đô hộ quân Minh trong ba thập niên đầu tiên của thế kỷ 15. Nhưng cái điều được xác quyết hời hợt như cuộc chiến “giải phóng dân tộc” lại có vẻ khác hẳn khi được xem xét kỹ.

Vào cuối thế kỷ 14 Hồ Quý Ly đã kiểm soát triều Trần và năm 1400 tự lập triều đại riêng. Trong khi nhà Trần là người thuộc đồng bằng sông Hồng, Hồ Quý Ly là người từ Thanh Nghệ, và ông xây một thủ đô mới ở Thanh Hoá. Việc ông không dành được sự trung thành của vùng Đông Kinh là một yếu tố quan trọng trong việc nhà Hồ không chống nổi cuộc xâm lược của nhà Minh năm 1406 - 1407, thời điểm khi Hồ Quý Ly từ bỏ phần lớn khu vực Đông Kinh và tìm cách phòng thủ bờ nam của sông. Hồng.

Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu của Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này, đặc biệt là họ Mạc đã trung thành phục vụ quân Minh. Năm 1407 người Minh nói hơn 1100 nhân vật có thế lực địa phương bày tỏ sự trung thành với nhà Minhvà yêu cầu vùng đất của họ sát nhập vào đế chế Trung Hoa. Tài liệu của nhà Minh ghi lại rằng hơn 9000 người địa phương sau đó đã đến thủ đô nhà Minh để được sắc phong làm quan chức cấp tỉnh. Hiệu lực của sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương .

Không khó để đọc cái gọi là “phong trào giải phóng dân tộc” của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh như thế lực bảo vệ chống sự quê kệch của các tỉnh phía nam. Cái nhìn này đi ngược với cách viết sử của nhà Lê và cách viết sử dân tộc chủ nghĩa thời hiện đại, nhưng khi xét các sự kiện về sau, nó lại đáng tin hơn so với khuynh hướng thông thường giả tảng như nhiều ngàn người phục vụ quân Minh hoặc đã biến mất vào màn sương phương Bắc hoặc bỗng dưng quay lại thành người yêu nước.

Vai trò của Nguyễn Trãi, sĩ phu Đông Kinh nổi tiếng và là người về Nam để ra nhập đoàn quân Lê Lợi ở Thanh Nghệ, không phải là nhân vật tiêu biểu hay đại diện cho xu thế chung ở quê ông. Các bài thơ ông viết trong thời Minh và trước lúc ông về nam phục vụ Lê Lợi thể hiện như cách dùng từ của O. W. Wolters “một người xa lạ ngay trên mảnh đất của mình”. Nhiều bài văn ông viết sau khi ông về nam là những lá thư gửi người cùng thời phục vụ nhà Minh, thúc giục họ quay sang phục vụ Lê Lợi . Sau này Nguyễn Trãi bị cô lập và triệt tiêu - bị cáo buộc tội giết vua và bị sử trảm năm 1442. Thảm kịch này chắc chắn có sự tác động của việc ông đã tách mình khỏi cả những người đồng hương ở Đông Kinh để phục vụ quyền lợi của Thanh Nghệ. Mặt khác, những bài thuyết lý của ông về cách cai trị và nỗ lực muốn đưa thêm người Đông Kinh vào phục vụ công việc triều chính lại khiến ông bị cô lập bởi những thế lực đang lên từ Thanh Nghệ.

Lê Thánh Tông (trị vì 1460 - 1497) thường được xem là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam bởi vì ông tạo lập được một chính quyền trung ương kiểu Trung Hoa và đã có cuộc chinh phục Champa. Thế nhưng thành tựu quan trọng nhất của ông lại không thường được công nhận: đó là thành công của ông trong việc tập hợp đoàn cận thần dung hoà cả quyền lợi của Đông Kinh và Thanh Nghệ.

Triều đại của ông và âm hưởng trong sự trị vì của người con nối nghiệp đã tạm thời dập tắt căng thẳng nhờ việc đáp ứng các quyền lợi của các phe. Một khía cạnh trong sự đáp ứng này là việc chinh phục lãnh đạo người Chàm ra tới đèo Cù Mông, ở biên giới phía nam sau đó là tỉnh Bình Định. Nó đem lại cho phe Thanh Nghệ một khoảng không gian mới cho tham vọng của họ. Một khía cạnh khác trong sự đáp ứng quyền lợi này là các khoa thi tạo cơ hội nhập triều chính cho những người Đông Kinh có gia đình từng phục vụ người Minh .

Tuy vậy thành công của vua Lê Thánh Tông phần lớn bắt nguồn từ uy tín cá nhân của ông. Nó thể hiện rõ khi chỉ hơn một thập niên sau khi ông mất, triều đình bắt đầu phân rã thành những phe nhóm diệt nhau để rồi sau đó khởi đầu cho ba thế hệ chiến tranh giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ, tức là cuộc nội chiến Lê - Mạc của thế kỷ 16. Đây là chương xung đột thứ 2 mà tôi chọn thảo luận trong bài viết này.

* Sự hỗn loạn trong đầu thế kỷ 16 thể hiện qua những cuộc nổi dậy của nhân dân ở Đông Kinh, mà lớn nhất là của Trần Cao. Đó là một nhà sư tự nhận mình là Đế Thích giáng sinh và hậu duệ nhà Trần. Những sự hỗn loạn này có thể dễ dàng được hiểu là phản ứng mang tính phật giáo của Đông Kinh trước thay đổi được gán cho triều Lê của Thanh Nghệ và yếu tố nho giáo của nó . Nhân vật tái lập trật tự ở Đông Kinh, Mạc Đăng Dung là thành viên trong cùng gia đình họ Mạc mà từng ủng hộ nhà Minh một thế kỷ trước.

Ông tập hợp nhóm cận thần mở rộng cửa cho các gia đình Đông Kinh và thành công trong việc huy động sự ủng hộ của địa phương . Một chi tiết quan trọng nhưng ít được nhắc tới là Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ 16 và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này.

Trịnh Tùng, người dẫn đầu cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh trong thập niên 1590, đã tổ chức sự chiếm đóng quân sự tại Đông Kinh mà vẫn còn thể hiện rõ khi Alexandre de Rhodes sống ở đó trong thập niên 1620 - 1630.

Alexandre de Rhodes tường thuật có vẻ với sự phóng đại rằng 50.000 lính từ Thanh Nghệ đóng thường trực tại “Hoàng Thành” ở Đông Kinh để bảo vệ những người trị vì và đàn áp các cuộc nổi dậy ở các tỉnh xung quanh Hà Nội. Bên cạnh đó còn là các đoàn thuỷ quân lớn tuần tra trên sông “để bảo vệ ông hoàng trước mọi phe phản loạn” .

Cho đến tận năm 1630, các cuộc càn quét của họ Mạc từ thung lũng Cao Bằng phía bắc, nơi nhà Mạc tiếp tục trị vì cho đến thập niên 1670 thể hiện dư âm cuộc nổi dậy chống lại nhà Trịnh của những cư dân vùng phía Đông Kinh. Cho mãi đến thập niên 1630, dưới sức ép thất bại quân sự ở miền nam, nhà Trịnh mới bắt đầu thu phục nhiều người Đông Kinh dưới trướng của họ.

Kết quả của việc này là cuộc xung đột phe nhóm kéo dài dựa trên các cạnh tranh quyền lợi địa phương . Các căng thẳng tương tự cũng thể hiện trong các cuộc nổi loạn lan rộng hầu khắp Đông Kinh trong thập niên 1740, 1750 và 1760 khi các đoàn quân nông dân địa phương bị lính từ Thanh Nghệ đàn áp sau nhiều năm đánh nhau.

Qua những gì trình bày, điều mà tôi hy vọng thể hiện là cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt Nam. Đông Kinh là đồng bằng trồng lúa rộng lớn với dân số tương đối đông dọc các dòng sông và biển; người dân ở đây xem vùng rừng núi chủ yếu là điều gì đó xa lạ.

Thanh Nghệ chạy dài vào miền nam với đồng lúa thưa thớt giữa các đồi và núi; đồi núi ở nhiều nơi kéo dài ra vùng duyên hải; những người trồng lúa sống như các láng giềng gần của các nhóm miền núi cao có cách sống ít mang tính nông nghiệp hơn.

Trong nhiều thế kỷ:

- Đông Kinh dày đặc các chùa chiền và lâu đài; các quan lại người Trung Hoa và vua nước Việt đã cai trị ở Đông Kinh nhiều thế kỷ,

- Thanh Nghệ là vùng biên giới tương đối hoang vu giữa Đông Kinh và khu vực người Chăm ở phía nam. Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh

Đó là nơi tuyển quân cho triều đình và là quê hương của những người nghĩ rằng họ phải lao động kham khổ giữa sự nhũng lạm miền Bắc của Đông Kinh.
Đông Kinh, mặc dù có liên hệ chặt chẽ hơn với văn hoá Trung Hoa, không thể cạnh tranh về mặt quân sự với Thanh Nghệ, bởi vì đằng sau Thanh Nghệ là một vùng rộng lớn của những người nói tiếng Việt, một kho tiềm tàng nguồn nhân lực bổ sung lính nhập ngũ, những người không quen và không chịu ràng buộc bởi những lề thói của người nông dân trồng lúa.

Đổi lại, Thanh Nghệ không thể thống trị khu vực nếu nó mở rộng ra ngoài tầm với của Thanh Nghệ trong thế kỷ 17, nỗ lực trong suốt nhiều năm của Thanh Nghệ muốn kiểm soát các lãnh địa nằm sâu về hướng nam đã kết thúc trong thất bại.
Có khi giải thích phía bắc ghét TH ko nhỉ.

Kể cũng lạ, vua Lê - chúa Trịnh ở vùng đất chặt hẹp TH ít dân, lại có thể đánh bại nhà Mạc lãnh thổ rộng lớn là cả miền bắc trong chiến tranh nam bắc triều phát triển hàng chục năm rồi.

Liệu có phải bên nào dc lòng dân là có dc thiên hạ??
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Bệnh viện ung bướu là nhân tố quan trọng để đô thị hóa khu Tây bắc cầu quán nam.
Cách đây 7-8 năm đi đến ngã ba voi là coi như hết nội thành, 2 bên là ruộng rộng bao la. Nay thì đã đô thị hóa một vùng vô cùng rộng lớn phía nam TPTH
 

Thienda

Người nổi tiếng
Cuộc làm việc giữa UBND tỉnh với Sun vẫn chưa diễn ra như kế hoạch, trì hoãn quá nhiều lần rồi, không hiểu tại sao ???
Chỉ còn một tháng nữa là đến thời điểm khai trương du lịch Sầm Sơn rồi, mà Sầm Sơn vẫn chưa có sản phẩm gì mới, FLC giai đoạn 2 vẫn còn dang dở, không gian du lịch phía đông đường Hồ Xuân Hương vẫn còn đắp chiếu, hệ thống hubway vẫn chưa tiến hành sửa sang lại. Giờ chỉ trông chờ mỗi Sun nhảy vào Sầm Sơn thôi, mà Sun cứ thế này thì cũng nản thật !
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Cuộc làm việc giữa UBND tỉnh với Sun vẫn chưa diễn ra như kế hoạch, trì hoãn quá nhiều lần rồi, không hiểu tại sao ???
Chỉ còn một tháng nữa là đến thời điểm khai trương du lịch Sầm Sơn rồi, mà Sầm Sơn vẫn chưa có sản phẩm gì mới, FLC giai đoạn 2 vẫn còn dang dở, không gian du lịch phía đông đường Hồ Xuân Hương vẫn còn đắp chiếu, hệ thống hubway vẫn chưa tiến hành sửa sang lại. Giờ chỉ trông chờ mỗi Sun nhảy vào Sầm Sơn thôi, mà Sun cứ thế này thì cũng nản thật !
Sun giờ đang đánh tổng lực vào Quảng Ninh, Phú Quốc.
Có thể chiều bay Sun đã làm việc rồi, nhưng ko cho báo chí đưa tin!
 

Hac.thanh

Moderator
Staff member
Năm nay du lịch Thanh Hóa có lẽ không ăn thua vì sẽ không có công trình lớn nào đáng kể khi FLC giai đoạn 2 chủ yếu là bán nhà chứ ko phải khu vui chơi!
Sungroup thì hy vọng năm nay khởi công quần thể Sầm Sơn giai đoạn 1.
Mặc dù FLC còn nhiều điều chê trách nhưng khi FLC đến tìm hiểu Thanh Hóa 1/2014 thì chỉ đến 5/2014 là khởi công FLC Sầm Sơn.
Hy vọng thời gian sắp tới Sungroup sẽ làm công trình gì đó đặc biệt để Sầm Sơn tiếp tục có bước phát triển mạnh về du lịch.
Nhưng như đã nói, để phá vỡ thế du lịch 1 mùa, Sầm Sơn phải có quốc lộ liên tỉnh chạy qua, cụ thể là đường ven biển nối ra nam định, thái bình, hải phòng! Nhanh nhất có lẽ là 2022 thì mới làm toàn tuyến 100km
 

Facebook Comment

Bài viết mới

Chủ đề được quan tâm nhất

Top