TÌM HIỂU ĐỊA DANH CỦA CÁC THỊ TRẤN XỨ THANH
Đúng 10 năm trước, tôi có viết bài này, cũng chưa kịp đăng ở đâu. Nay mở lại, thấy 10 năm nhìn lại mà quá trình đô thị hóa của tỉnh nhà mạnh mẽ quá. Đọc lại và luyến tiếc những địa danh xưa cũ, như cái tên Lưu Vệ, giá như thị trấn Quảng Xương mở rộng lấy lại tên Lưu Vệ thay vì ghép máy móc Tân Phong.
1. Đặt vấn đề
Thanh Hóa là tỉnh đất rộng, người đông. Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tính đến ngày 01/4/2009, tỉnh Thanh Hóa có số dân 3.400.595 người, trong đó dân số sống tại các đô thị là 352.594 người [1:4].
Với tổng số 27 đơn vị hành chính cấp huyện, ngoài thành phố Thanh Hóa và các thị xã Sầm Sơn, Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa có 24 huyện, chiếm số lượng nhiều nhất so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Tổng dân số của 30 thị trấn trên địa bàn 24 huyện nêu trên là 132.427 người [1:17], chiếm 37,6 % dân số đô thị trong toàn tỉnh, với số dân trung bình của mỗi thị trấn là 4.414 người. Các thị trấn ở Thanh Hóa có mặt ở cả ba vùng địa hình: đồng bằng, trung du và miền núi. Việc xem xét một cách có hệ thống địa danh của các thị trấn xứ Thanh hẳn không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt thống kê.
2. Nội dung
Có thể chia các thị trấn tại Thanh Hóa làm hai nhóm đối tượng: thị trấn huyện lị và thị trấn không phải huyện lị.
2.1. Các thị trấn huyện lị
Thị trấn Thọ Xuân là thị trấn huyện lị đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa, được thành lập từ năm 1965 [18:376-377]. Năm 1984, thị trấn Tĩnh Gia được thành lập [18:594]. Thị trấn Thọ Xuân nằm ở phía tây của đồng bằng Thanh Hóa, bên bờ sông Chu, còn thị trấn Tĩnh Gia nằm ở phía đông nam đồng bằng Thanh Hóa, cách bờ biển chỉ vài kilômet.
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, hàng loạt thị trấn huyện lị được thành lập: thị trấn Nông Cống, thị trấn Quan Hóa (1987) [18:652], thị trấn Hà Trung, thị trấn Ngọc Lặc, thị trấn Thường Xuân, thị trấn Triệu Sơn, thị trấn Nga Sơn, thị trấn Thiệu Yên (1988) [18:697,698,710], thị trấn Hậu Lộc, thị trấn Bút Sơn, thị trấn Yên Cát, thị trấn Cẩm Thủy (1989) [25], thị trấn Kim Tân (1990) [18:742], thị trấn Quảng Xương, thị trấn Lang Chánh (1991) [18:767], thị trấn Rừng Thông, thị trấn Vĩnh Lộc (1992) [18:786] và thị trấn Cành Nàng (1994) [18:832].
Năm 1996, một số huyện được tái lập (Thiệu Hóa, Yên Định), một số được thành lập mới (Như Thanh, Quan Sơn, Mường Lát) [18:868]. Từ năm 2000 trở đi, các huyện này lần lượt thành lập thị trấn huyện lị: thị trấn Vạn Hà (2000) [18:964], thị trấn Bến Sung (2002) [18:983], thị trấn Mường Lát và thị trấn Quan Sơn (2003) [11].
Giống như các thị trấn trong cả nước, hầu hết các thị trấn ở Thanh Hóa được thành lập trên cơ sở chủ yếu là các thị tứ đã hình thành từ trước, mà ở Thanh Hóa thường gọi là
phố: phố Quán Lào, phố Quán Giắt, phố Còng, phố Cống, phố Giáng… Các làng/phố này khá nổi tiếng trong văn học dân gian. Lời một bài hát ghẹo Thanh Hóa [19:47]:
Làng Bút làm được vải con
Thổ Oa gánh đất sơn son nặn nồi
Làng Nhồi gánh đá nung vôi
Làng Vạn nấu rượu cho người ta mua
Ba trong số bốn địa danh trong câu ca trên nay là những thị trấn: Bút Sơn (làng Bút), Nhồi (làng Nhồi Hạ) và Vạn Hà (làng Vạn).
Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 8 trong tổng số 24 thị trấn huyện lị sử dụng các tên cũ:
– Thị trấn Quán Lào thuộc huyện Yên Định, lấy theo tên của thị tứ Quán Lào. Tên gọi này bắt nguồn từ Kẻ Lào, còn gọi là làng Lào. Chữ "Quán" ở đây theo nghĩa "quán dịch" có nghĩa là "nhà trạm" (nơi dừng chân của khách bộ hành trên đường cái quan) [22:101], tương tự "quán Đông Thổ" trong câu ca:
Qua Chiêng rồi lại sang Giàng
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương…
Kẻ Lào gồm có hai khu: Lào Trong, tên chữ là Lý Yên và Lào Ngoài, tên chữ là Thành Phú. Đất Lào Trong nằm ổn định bên trong sông Mã, còn Lào Ngoài là đất bãi sông Mạn Định, về sau sông này cạn dần và đổi dòng thì dân làng mới khai phá, mở mang [23:446]. Trước Cách mạng tháng Tám, Kẻ Lào thuộc tổng Đông Lý, từ năm 1953 thuộc xã Định Tường, huyện Yên Định [2:240]. Năm 1977, phần lớn thôn Thành Phú của xã Định Tường cùng với một phần thôn Tân Ngữ của xã Định Long được tách ra để thành lập thị trấn Thiệu Yên (lấy theo tên huyện Thiệu Yên, là huyện được thành lập cùng trong năm 1977 từ huyện Yên Định và một phần huyện Thiệu Hóa). Sau đó một phần thôn Lý Yên cũng được sáp nhập vào thị trấn. Mười chín năm sau, thị trấn này được đổi tên thành Quán Lào đồng thời với việc tái lập huyện Yên Định từ huyện Thiệu Yên [18:869].
Là một thị tứ đông đúc từ lâu đời, Quán Lào có nhiều sản vật đặc sắc: Bánh đúc Kẻ Go, bánh tày to Quán Lào hay Bánh chưng cầu Hậu, cháo đậu Quán Lào [23:544].
Ca dao Thanh Hóa có câu [23:544]:
Trò Chiềng, vật Bộc, rối Si
Cơm đắp kẻ Lở, cơm thi kẻ Lào
Duyên Thượng thì kéo chòa rào
Làng Huê săn cuốc, làng Lào săn chim.
Làng Lào thờ Thánh Quân làm thành hoàng. Theo truyền thuyết, đó là một quân gia của Cao Biền tên là Trịnh Lam, bị chết trôi dạt về đây, được dân thờ phụng. Hội thổi cơm thi kẻ Lào là một trong các hội liên quan đến tục thờ thành hoàng làng. Ngoài ra, Kẻ Lở tên chữ là Tân Bái, sau đổi thành Tân Ngữ, nay là tiểu khu I của thị trấn Quán Lào và thôn Tân Ngữ của xã Định Long.
– Thị trấn Bút Sơn thuộc huyện Hoằng Hóa, lấy theo tên xã Bút Sơn (
筆 山) thuộc tổng Bút Sơn. Xã Bút Sơn nay gồm các làng Thọ Văn (làng Bái), Bút Cương (làng Lầm), Hoằng Lộc thuộc xã Hoằng Phúc và các làng Phúc Thọ (tên cũ là Hoa Bút), Vĩnh Yên (tên cũ là Thọ Bút hay Trại Bút) thuộc xã Hoằng Đức [20:484]. Thời Hậu Lê đã có làng Bút Cương. Đại Việt sử kí toàn thư, quyển IV viết: "…(nhà Mạc) chia quân thành 5 đạo, tiến vào cửa Linh Trường, Chi Long, Hội Trào, họp nhau ở xã Bút Cương…". Địa danh Bút Sơn xuất hiện từ đầu thời Nguyễn [2:67], sau này có mặt trong "Hoằng Hóa tứ vật" [20:377]:
Vật giao Hoằng Nghĩa hữu
Vật thú Nguyệt Viên thê
Vật ẩm Vĩnh Trị tửu
Vật đả Bút Sơn kì.
Nghĩa là:
Đừng làm bạn với người Hoằng Nghĩa
Đừng lấy gái làng Nguyệt Viên làm vợ
Đừng uống rượu do làng Vĩnh Trị nấu
Đừng đánh cờ với người Bút Sơn.
Trong địa danh Bút Sơn, từ "Bút" dường như cũng gắn với truyền thống hiếu học của người Hoằng Hóa. Dân gian Thanh Hóa có câu:
Thầy đồ Hoằng Hóa, thầy khóa Đông Sơn.
– Thị trấn Yên Cát thuộc huyện Như Xuân, lấy theo tên xã Yên Cát được thành lập năm 1946. Năm 1964, xã Yên Cát được chia thành ba xã: Yên Lễ, Hóa Quỳ và Cát Vân [18:369]. Năm 1978, huyện lị Như Xuân chuyển từ Bến Sung đến khu vực ngã ba Lúng thuộc xã Yên Lễ [16:31]. Năm 1989, khu vực này trở thành thị trấn Yên Cát.
– Thị trấn Kim Tân thuộc huyện Thạch Thành, lấy tên theo phố Kim Tân có từ trước năm 1945 [3:193]. Thị trấn Kim Tân thành lập năm 1990 trên cơ sở một phần các làng Mỹ Tân, Mỹ Sơn của xã Thành Kim và làng Trường Cát của xã Thành Hưng. Xã Thành Kim thành lập năm 1953 cũng được lấy tên ghép từ tên huyện Thạch Thành với tên phố Kim Tân.
Địa danh Kim Tân xuất hiện từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821). Khi đó, trang Bến Vàng thuộc tổng Trường Cát, huyện Quảng Bằng được đổi thành trang Kim Tân [5:646].
Mía Kim Tân ở đây là sản vật nổi tiếng xứ Thanh.
– Thị trấn Rừng Thông thuộc huyện Đông Sơn, lấy tên của phố Rừng Thông, là một trong hai khu phố (cùng với phố Kết) của xã Đông Xuân cấu thành thị trấn. Thị trấn Rừng Thông nằm bên một dãy Phượng Lĩnh, được trồng thông từ thời thuộc Pháp, từ đó tên gọi Rừng Thông đã trở thành danh từ riêng. Địa danh này được biết nhiều qua những câu vè:
…Cây cầu con con
Gọi là cầu Bố
Mấy cây lố nhố
Gọi là Rừng Thông…
– Thị trấn Cành Nàng thuộc huyện Bá Thước, nguyên là chòm Cành Nàng, trước thuộc Mường Khương, sau Cách mạng tháng Tám thuộc xã Long Vân và từ năm 1964 thuộc xã Lâm Xa [3:16]. Năm Khải Định thứ 10 (1925), châu Tân Hóa được thành lập, lị sở là khu vực Cành Nàng. Sau năm 1945, chính quyền mới bỏ châu Tân Hóa lập huyện Bá Thước, huyện lị chuyển đến phố Đồng Tâm (thuộc xã Thiết Ống) [17:295]. Sau này huyện lị trở về Cành Nàng và từ năm 1994, Cành Nàng trở thành thị trấn huyện lị. Địa giới của Cành Nàng xưa nay gồm một phần thị trấn Cành Nàng và thôn Cành Nàng của xã Lâm Xa.
Theo ông Hà Nam Ninh, một cựu giáo chức quê ở Cành Nàng thì Cành Nàng hay Cành Nang là phiên âm từ tiếng Thái, người Mường đọc là Kếnh Náng còn tiếng Việt là Ghềnh Nàng, nghĩa là ghềnh nước gần bụi cây nàng. Truyền thuyết ở đây kể lại rằng, một lần có tù trưởng người Thái họ Hà Công đi qua vùng này, nghe tiếng cuốc kêu bèn dừng lại tìm quanh. Đến gần một bụi cây nàng thì thấy một ghềnh nước. Ba năm sau quay lại, vẫn chưa thấy có người ở, tù trưởng bèn đưa người đến khai phá.
Cành Nàng là nơi tụ cư từ lâu đời của người Thái và người Mường. Hiện nay tại thôn Cành Nàng vẫn còn hai đền thờ thành hoàng: đền thờ họ Hà Công của người Thái và đền thờ họ Trương của người Mường.
– Thị trấn Vạn Hà thuộc huyện Thiệu Hóa, lấy tên theo tên xã Vạn Hà trước đây. Theo truyền thuyết, thời An Dương Vương, tướng Cao Lỗ trên đường kinh lí qua vùng đất này thấy đất đai màu mỡ, phong cảnh hữu tình nên đã đưa người đến khai phá và đặt tên là Vãn Hà. Người dân ở đây hiện nay vẫn thờ Cao Lỗ làm thành hoàng [21:508]. Trên thực tế, theo sách
Đồng Khánh dư địa chí, xã Vãn Hà (
挽 河) vào đời Đồng Khánh nhà Nguyễn (1885-1888) thuộc tổng Mật Vật, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, gồm các thôn Trí Cẩn, Kiến Trung và Đồng Minh. Sau đó, xã Vãn Hà đổi thành Vạn Hà, thôn Kiến Trung cũng đổi thành Kiến Hưng còn thôn Đồng Minh đổi thành Đông Dương rồi Dương Hòa [21:113]. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), cả ba thôn thuộc xã Vãn Hà, huyện Thiệu Hóa, từ năm 1953 thuộc xã Thiệu Hưng (tên ghép của huyện Thiệu Hóa và làng Kiến Hưng) và từ năm 2000 xã Thiệu Hưng trở thành thị trấn Vạn Hà. Trước khi có cây cầu Thiệu Hóa nối đôi bờ sông Chu, tại làng Vạn Hà còn có bến phà Vạn.
– Thị trấn Bến Sung thuộc huyện Như Thanh, được lấy từ tên làng Bến Sung (làng Minh Khai) thuộc xã Hải Vân. Tại thị trấn này còn có làng Đồng Sung, nay đổi là thôn Xuân Phong. Bên xã Hải Long (được chia tách từ xã Hải Vân vào năm 1988) cũng có một số làng có tên gọi với tiền tố
Bến như Bến Lim, Bến Lau. Thời nhà Nguyễn, khu vực Bến Sung thuộc xã Xuân Hòa, tổng Xuân Du, là châu lị của châu Như Xuân [16:30]. Sau năm 1945, chính quyền cách mạng bỏ cấp châu, lập huyện Như Xuân, huyện lị vẫn đóng tại Bến Sung. Năm 1978, huyện lị Như Xuân chuyển đến Yên Cát [16:31]. Năm 1996, khu vực Bến Sung trở thành huyện lị của huyện mới Như Thanh cho đến năm 2002 thì chính thức trở thành thị trấn huyện lị.
Tại thị trấn Bến Sung có Phủ Sung, tương truyền được xây dựng vào năm Thành Thái thứ 5 (1897). Đền này gồm có ba gian, thờ mẫu cửu trùng, mẫu thượng ngàn và mẫu thoải [16:20].
16 trong tổng số 24 thị trấn huyện lị sử dụng tên huyện làm tên gọi. Lí do để sử dụng tên huyện làm tên thị trấn huyện lị thường là do các thị trấn này được thành lập từ một phần lãnh thổ của hai hay nhiều xã, dẫn đến yêu cầu sử dụng tên gọi mang tính đại diện và thể hiện được tính chất “huyện lị”. Mặc dù vậy, do được thành lập với hạt nhân là thị tứ đã tồn tại từ trước nên một số thị trấn vẫn được người dân gọi theo tên thị tứ cũ:
– Thị trấn Hà Trung, còn gọi là thị trấn Lèn hay thị trấn Đò Lèn. Thị trấn nằm bên bờ sông Lèn, một chi lưu của sông Mã. Xưa nơi đây có bến đò chợ Lèn thuộc làng Yên Phú, xã Hà Ngọc [8:419]. Bến đò chợ Lèn hay bến Đò Lèn, còn được gọi là Đò Liên [10:160]. Thời Pháp thuộc, cầu Lèn mọc lên thay thế bến Đò Lèn [8:419]. Năm 1988, thị trấn Hà Trung được thành lập từ một phần lãnh thổ các xã Hà Ngọc, Hà Phong, Hà Ninh và Hà Bình, gồm các phố: phố Lèn, phố Ga, phố Củi và phố Hòa Bình, sau đổi thành các tiểu khu từ tiểu khu 1 đến tiểu khu 6 [6:20]. Trong đó phố Lèn thuộc làng Thượng, xã Hà Phong, hình thành sau khi thực dân Pháp mở ga Lèn trên tuyến đường xe lửa Hà Nội – Vinh. Thời gian đầu, phố Lèn tập trung những người buôn bán, chủ yếu là người gốc Hoa [6:24].
– Thị trấn Quảng Xương, còn gọi là thị trấn Lưu Vệ, do được thành lập từ phố Lưu Vệ của xã Quảng Tân và một phần của các làng thuộc các xã Quảng Tân, Quảng Phong, mà trước đây đều thuộc xã Lưu Vệ (
留 衞), tổng Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Thời Hậu Lê đã có xã Lưu Vệ. Đại Việt sử kí, quyển XX có ghi: "…(vua Lê Kính Tông) phong tổng thái giám Triệu Lượng hầu Bùi Sĩ Lâm (người xã Lưu Vệ, huyện Quảng Xương) làm Thành quận công…". Đầu triều Nguyễn, vào thời Gia Long, xã Lưu Vệ là một xã lớn của huyện Quảng Xương, gồm các thôn Câu Đồng Nội, Câu Đồng Ngoại, Vạn Thu, Nhân Hậu, Quang Vệ, Mãn Triều, Phú Đa Đông, Thượng Thọ và Nhân Trạch Đoài [9:78]. Nay thuộc các xã Quảng Thịnh, Quảng Tân, Quảng Trạch, Quảng Phong và thị trấn Quảng Xương, huyện Quảng Xương.
Xã Lưu Vệ xưa nổi tiếng với nghề làm quạt giấy [9:452]:
Lấy chồng hàng quạt thanh danh
Ăn rồi lại trải chiếu manh ra ngồi
Nường về Lưu Vệ cùng tôi
Trải manh chiếu rách thảnh thơi ta nằm.
Quạt được bán lẻ ở chợ Lưu Vệ, ngày nay chợ này vẫn còn ở xã Quảng Tân. Con gái Lưu Vệ nổi tiếng tháo vát đảm đang [9:451]:
Gái Lưu Vệ, lính lệ làng Bùi
– Thị trấn Tĩnh Gia, còn được gọi là thị trấn Còng, được thành lập từ phố Còng thuộc xã Hải Hòa và một phần lãnh thổ các xã Hải Nhân, Nguyên Bình, Bình Minh, huyện Tĩnh Gia. Từ đầu thế kỉ 19 (khoảng giữa thời Gia Long), làng Còng tên chữ là Cộng Phú (
共富) thuộc xã Phù Sa, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia [4:19]. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), thôn Cộng Phú thuộc xã Hải Hòa. Năm 1954, xã Hải Hòa chia thành ba xã là Hải Hòa, Hải Nhân và Ninh Hải, thôn Cộng Phú cũng được chia thành hai phần thuộc hai xã Hải Hòa, Hải Nhân. Địa giới làng Còng xưa đến nay tương ứng với một phần địa giới thị trấn Tĩnh Gia cùng các thôn Xuân Hòa, Trung Chính của xã Hải Hòa [4:809] và các thôn Thượng Bắc, Thượng Nam, Đồng Tâm của xã Hải Nhân [4:807].
– Thị trấn Nông Cống, còn gọi là thị trấn Chuối. Làng Chuối có tên chữ là Khê Thị (
谿 巿), sau đổi thành Thiện Thị (
譱 巿), thuộc xã Vạn Thiện, tổng Vạn Thiện, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia. Huyện lị Nông Cống trước đây đóng ở cầu Quan. Sau khi tách 20 xã phía bắc của huyện, cùng với 12 xã phía nam huyện Thọ Xuân để lập huyện Triệu Sơn vào năm 1964, huyện lị chuyển về khu vực cầu Chuối thuộc làng Chuối. Đến năm 1987, khu vực này trở thành thị trấn huyện lị. Đất làng Chuối xưa, hiện nay một phần thuộc thị trấn Nông Cống, một phần thuộc thôn Cộng Hòa, xã Vạn Thiện, huyện Nông Cống [7:701].
Tuy mang tên chợ Chuối nhưng chợ này lại từng nổi tiếng với củ khoai. Dân gian trong vùng có câu [9:460]:
Khoai chợ Chuối, muối chợ Ghép, tép chợ Nưa, dưa chợ Bùi
– Thị trấn Triệu Sơn, còn gọi là thị trấn Giắt hay Quán Giắt. Quán Giắt trước đây thuộc làng Giắt, một làng Việt cổ thuộc huyện Nông Cống. Chữ "Quán" ở đây có cùng nghĩa như trong "Quán Lào", nghĩa là "nhà trạm". Với nghĩa này, địa danh Quán Giắt đã được Hán hóa thành xã Trạm Lộ (
站路). Tuy nhiên, theo
Các tổng trấn xã danh bị lãm, tên chữ Hán của xã Trạm Lộ là
湛路 [5:567], trong đó "Trạm" nghĩa tiếng Việt là
sâu hoặc
trong sạch, "Trạm Lộ" nghĩa là
con đường ở khuất sâu (trên thực tế, khu vực này nằm cách đường thiên lí Bắc-Nam, tức là quốc lộ 1A sau này, khoảng 30km). Đầu thế kỉ 19, xã Trạm Lộ thuộc tổng Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), vùng đất này thuộc xã Minh Nông, huyện Nông Cống [22:101], đến năm 1964 là xã Minh Dân thuộc huyện Triệu Sơn mới thành lập. Sau khi thị trấn Triệu Sơn được thành lập năm 1988, làng Giắt xưa thuộc địa giới xã Minh Dân và thị trấn huyện lị Triệu Sơn.