Còn đây nữa
DẤU ẤN VĂN HOÁ XỨ THANH TRÊN ĐẤT NAM TRUNG BỘ
Xứ Quảng xưa là vùng đất rộng dài suốt dải phía Nam Trung bộ, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đến Khánh Hòa, Bình Thuận... Người Thanh Hóa đầu tiên đến Quảng Nam theo sử chép, là Hoàng đế Đại Việt Lê Đại Hành.
Văn hóa Xứ Thanh, đóng góp xây dựng miền đất phía Nam bắt đầu in dấu ấn rõ nét nhất từ năm 1558, Nguyễn Hoàng (con trai Nguyễn Kim) được vua Lê Trung hưng sai đi trấn thủ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng người Gia Miêu Ngoại trang, huyện
Tống Sơn, nay là huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, mang theo hơn 1.000 binh sĩ, 500 gia nhân, tôi tớ, chưa kể nhân dân, đều là người Thanh Hóa, đây là đợt di dân, cuộc Nam tiến đầu tiên lớn nhất trong lịch sử được sách vở ghi chép, đánh giá cao. Cuộc di dân Nam tiến lớn thứ hai, năm 1600 cũng do Nguyễn Hoàng nhân chuyến ra Bắc chúc mừng vua Lê Trung hưng trở lại Thăng Long, được nhân dân Thanh Hóa đi theo khá đông.
Năm 1578, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh làm tri huyện Tuy Viễn (phủ Bình Định), giáp giới Phú Yên nhằm chuẩn bị mở mang đất Phú Yên, một địa phương đất đai rộng lớn, phì nhiêu chưa khai phá hết. Họ Lương ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa, nhiều người làm quan với nhà Lê. Lương Văn Chánh là võ quan trẻ tuổi, sớm thăng tiến đến chức Đô chỉ huy sứ. Ông theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, rất được tin dùng. Trọng nhậm Tuy Viễn Lương Văn Chánh vượt cõi, đánh đuổi bọn trộm cướp, giặc dã, giữ yên miền biên giới, nhân đó ông đem quân vào Phú Yên đóng lại và chiêu mộ lưu dân người Việt từ Bắc vào, đưa đi khai hoang, lập thành trại ấp, đặt hương chức cai quản, sai tuần đinh phòng gian, trừ nghịch. Khi tình hình Phú Yên tương đối ổn định, năm 1597, Nguyễn Hoàng ban lệnh sáp nhập vùng đất mới này vào địa đồ Thuận - Quảng, thăng chức Phù Nghĩa hầu cho Lương Văn Chánh, quyền coi huyện Tuy Hòa, trấn An Biên.
"Đọc sách cho là đã nhiều, đụng tới việc mới biết rằng chưa đủ"
tuancongthuphong.blogspot.com
Các cụ nhà ta đi ngày xưa đã Nam tiến, xa quá nhỉ.
Ban đầu dựng làng, Lương Văn Chánh dựa theo lối kiến trúc Xứ Thanh mang tính phòng thủ như làng cổ Trung Lập (Thọ Xuân), làng cổ Đông Sơn (thành phố Thanh Hóa)... chung quanh có hào, lũy, giữa là đường xương cá tỏa ra các ngõ xóm, nhà cửa ở gần nhau, nương tựa vào nhau, tiện giúp đỡ lẫn nhau khi tối lửa tắt đèn. Mỗi nhà lại có bờ rào gai, cổng ngõ để phòng gian tự bảo vệ mình. Quá trình xây dựng, phát triển ngày càng thêm nhiều luồng di dân mới bổ sung, đất đai mở mang, đồng ruộng khai phá không ngừng.
Chúa Nguyễn Hoàng năm 1611 chính thức đặt thêm phủ Phú Yên bên cạnh phủ Quảng Ngãi gồm hai huyện Tuy Hòa, Đồng Xuân, sai Chủ sự Văn – Phong làm Lưu thủ, phủ Phú Yên, thay Lương Văn Chánh tuổi già.
Phía bắc phủ Phú Yên là phủ Quảng Ngãi. Năm 1601, Nguyễn Hoàng cử Huỳnh Công Thiệu tước Vũ Sơn hầu làm Chánh Đề Lĩnh cai quản phủ Quảng Ngãi, bởi tuy đã là đơn vị hành chính từ lâu, nơi đây vẫn thường bị quân giặc quấy phá, phải dùng võ quan biết văn trị để phụ trách quân dân sự vụ.
Huỳnh Công Thiệu, người làng Cam Giá, huyện Tống Sơn (Hà Trung, Thanh Hóa) là tướng tâm phúc của Chúa Nguyễn Hoàng, do công lao được phong đến tước hầu. Phía Nam Quảng Ngãi, còn nhiều đất hoang, rừng rậm, nơi trú ngụ của loài ác thú, kẻ gian phi, nên phải khai hoang phá rậm để chúng không còn chỗ ẩn nấp, vừa thêm nguồn lợi cho nước, vừa giúp dân an cư lạc nghiệp. Công Thiệu chiêu mộ kẻ nghèo đói lang thang, phiêu bạt không kể người Chăm hay người thiểu số, cùng người Việt phá rừng rậm làm ruộng, khai hoang lập ấp, khơi ngòi lấy nước tưới, đắp đập chắn lũ, chẳng bao lâu cả một vùng hoang rậm thành xóm làng trù mật (1).
Địa bàn Huỳnh Công Thiệu tổ chức khai khẩn, lập thôn ấp, nay là các xã Phổ Ninh, Phổ Minh, thị trấn Đức Phổ và các vùng phụ cận phía đông, phía tây xã Hòa Phố, cho tới đèo Bình Đê giáp ranh tỉnh Bình Định. Ông tổ chức lưu dân và binh lính làm các công trình thủy lợi, xây dựng hệ thống tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tài liệu địa phương còn lưu giữ được khá cụ thể. Công Thiệu cho đắp đập, xẻ khe ngòi tạo nên hệ thống dẫn nước từ sông Trà Câu như đào kênh Bàu Sếu ở ấp Trường Sanh, Phổ Minh đắp đập Quán, đập Dịu thôn Tân Tự, Phổ Minh, đập Đồng Nghệ thôn Nho Lâm, Phổ Hòa, đập Vực Tre, ấp An Ninh, Phổ Minh. Các công trình thủy lợi nhỏ này không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu cho đồng ruộng mới khẩn hoang trên diện rộng mà còn góp phần vào phát triển nông nghiệp ở vùng đất phía Nam huyện Mộ Hoa, phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) lúc bấy giờ.
Người Thanh Hóa di cư vào miền đất Nam Trung bộ theo con đường lưu vong dưới thời Lê Trung hưng ngày càng đông. Nhiều gia đình phát triển thành dòng họ lớn nhưng rất ít dòng họ có gia phả hoặc giữ được gia phả, đa số chỉ ghi nhớ theo truyền ngôn. Như các họ Phạm, họ Nguyễn, họ Đỗ... ở làng Phương Cựu, xã Phương Hải, huyện Ninh Khánh (nay là Ninh Hải) tỉnh Ninh Thuận, các cụ cao tuổi được truyền lại, tổ tiên xưa vốn người Thanh Hóa (2).
Ở làng Phương Cựu (tỉnh Ninh Thuận), riêng họ Lê Duy hiện còn giữ được nhiều giấy tờ xưa và bản gia phả ghi chép cụ thể nguồn gốc gia đình, dòng họ mình.
Thủy tổ họ Lê Duy làng Phương Cựu là hai anh em ruột Lê Duy Đằng, Lê Duy Đăng ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Đời vua Lê Chiêu Thống, hai anh em sợ quân Tây Sơn giết hại, cùng 28 bạn làm nghề chài lưới dùng thuyền buồm chạy một mạch đến cuối tỉnh Khánh Hòa, tạt vào một nơi gọi là Mò Ô (nay là ấp Thanh Xương, bán đảo Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa). Trú ở Thanh Xương ít lâu, ông Đằng qua đời, ông em theo lời dặn của anh, táng thi hài vào chỗ vốn là đầm lầy, rồi tiếp tục cắm sào bỏ neo tại đây. Ông định ở lại lâu dài nên dựng từ đường trên đất liền, đặt linh vị ông bà, tổ tiên để lo phần hương khói. Một thời gian, nhận thấy đất Thanh Xương chỉ lợi nghề nông, không tiện nghề biển, ông Đăng đem gia đình vợ con, các cháu cùng 8 người bạn chài: Lê Công Hầu, Lê Công Ích, Lê Sĩ Cảnh, Lê Hiển Đạt, Trương Quang Tuyến, Trần Anh Tuấn (còn hai anh em họ Nguyễn bị khuyết tên) dùng thuyền buồm nhỏ, nhổ neo đi tiếp vào phía trong dừng lại cửa Nại (ấp Duy Khương, đồi Dư Khánh, nay thuộc tỉnh Ninh Thuận) rồi di chuyển đến bên kia sông làm nghề chắn đăng bắt cá (sau này thuộc thôn Tri Thủy, tỉnh Ninh Thuận).
Một số nhà nghiên cứu văn hóa sông nước Nam Trung bộ cho rằng: Tập quán dân chài Nam Trung bộ ở ven bờ sông lạch, cửa biển, bãi ngang bắt nguồn từ truyền thống cư trú lâu đời của ngư dân Thanh Hóa và Bắc Trung bộ nói chung. Bởi thế làng mạc cửa sông, ven biển Nam Trung bộ nhiều nơi dân cư tập trung khá đông đúc, mặc dù đất đai không thiếu.
Phía Bắc Bình Định, Phú Yên là Quảng Nam, Lê Thánh tông năm 1471, sau khi dẹp yên giặc Chiêm, bắt đầu cuộc kinh dinh lớn. Nhà vua để lại đây hàng vạn binh sĩ và gần 300 tướng văn, tướng võ, trong số đó rất đông người Thanh Hóa, những hạt nhân gieo mầm sống. Họ chia nhau ở 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhơn, lúc ấy thuộc thừa tuyên Quảng Nam (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Riêng ở Quảng Nam, phần đông người họ Lê gốc Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa) đã được ghi chép và lưu truyền trong các “Gia phả Lê tộc huynh đệ” (3) nói rõ công lao khai sơn phá thạch, lập nên thôn xã ở khắp nơi. Dưới đây chỉ kể một số trường hợp tiêu biểu:
- Hoàng thân Lê Tấn Triều có công Nam chinh 1471 được phong Triệu quốc công, Lê Thánh tông sai ở lại Thăng Hoa trấn thủ châu Ngũ Hành. Ông tổ chức khai hoang, vỡ hóa, lập làng, tổng số ruộng đất hơn 6.000 mẫu. Ông còn đem thợ đá An Hoạch (làng Nhồi Thượng) Thanh Hóa vào khai thác đá quý Ngũ Hành sơn sản xuất đồ đá phục vụ quốc dụng và dân dụng, truyền đến nay thành một làng nghề nổi tiếng.
- Hoàng thân Lê Tấn Trung (em Lê Tấn Triều) là công thần Trung hưng phế Lê Nghi Dân đưa Lê Thánh tông lên ngôi, lập công Nam chinh, được phong tước Triệu quận công. Vua cử ông ở lại châu Lễ Dương. Ông tập hợp dân vỡ hoang lập ấp, đời sau suy tôn làm tiên hiền nhiều làng.
- Lê Viết Bang chức Thiêm sự chỉ huy, sau cuộc Nam chinh 1471, Lê Thánh tông sai ở lại trấn thủ đất Chiêm Động. Nơi đây chủ yếu chỉ có thổ dân tính tình ngang ngạnh hay gây gổ đánh nhau. Giặc cướp ngoài biên rình cơ hội kéo vào cướp phá. Lê Viết Bang đem quân trấn áp bọn nghịch tặc, nơi nào giữ yên liền mộ dân đến ở vỡ hóa, khai hoang, không phải nộp thuế. Nhờ vậy, chính dân cư xóm ấp mới lập cũng giúp ông trị an rất đắc lực. (Nay thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam)...
Nhìn chung Xứ Quảng (Nam Trung bộ), chúng ta có thể nhận ra những nét khái quát của người Xứ Thanh trên đường Nam tiến mở đất mở nước từ cách đây nghìn năm trước.
TCTP